Thời gian qua, TKV liên tục phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, lượng than tồn kho lớn, một số loại thuế phí gia tăng… Đây là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất – kinh doanh và đời sống người lao động trong Tập đoàn.
Áp lực thuế phí
Kể từ ngày 1/7/2016 (thay vì từ 1/1/2016 như đề xuất của Bộ Tài chính), thuế suất thuế tài nguyên của hàng loạt tài nguyên, khoáng sản tăng lên theo Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13 về mức thuế suất thuế tài nguyên được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 10/12/2015. Điều này tương ứng với việc TKV bị tăng thêm hơn 1.000 tỷ đồng tiền thuế và đang chịu mức thuế cao nhất thế giới cho hoạt động khai thác khoáng sản.
Theo thống kê, nếu như năm 2010, mức thuế trên 1 tấn than là 44.248 đồng/tấn, thì đến năm 2015 mức thuế này là 97.100 đồng/tấn, gấp 2,2 lần so với năm 2010 (nếu trừ yếu tố giá thì do thuế suất tăng khoảng 2 lần), nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác thì mức tăng cao hơn. So với Australia, mức thuế này chỉ 2-15%, trung bình lộ thiên 7%, hầm lò 6% và không áp dụng thuế xuất khẩu than; than Indonesia thuế tài nguyên 3-7%; than Trung Quốc thuế tài nguyên 0-4%… Như vậy, thuế tài nguyên của Việt Nam cao hơn 7-10% so với các nước.
Thêm vào đó, về đơn giá tính thuế tài nguyên cũng liên tục điều chỉnh theo chiều hướng ngày càng tăng. Ngoài thuế tài nguyên, tiền cấp quyền khai thác, TKV còn phải nộp phí môi trường và thuế môi trường khoảng 2,5% giá thành; chưa kể chi phí thăm dò, chi phí môi trường do TKV thực hiện khoảng 4% giá thành. Riêng đối với than xuất khẩu: Giá thành cộng thêm 10% thuế GTGT đầu vào không khấu trừ thì tổng số thuế, phí trong giá thành là 26% (nếu tính cả chi phí môi trường, thăm dò do TKV thực hiện là 30%), cộng thêm thuế xuất khẩu than 10% thì tổng số thuế phí khoảng 36-40%.
Sự gia tăng liên tục về thuế phí đã ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của Ngành. Than nhập khẩu của các nước tràn vào đã chiếm 1/4 thị phần của thị trường Việt Nam. Cũng chính vì vậy mà lợi nhuận ngành Than trong nước giảm mạnh. Doanh nghiệp không đủ vốn đối ứng để đầu tư phát triển, không khuyến khích khai thác tận thu tài nguyên (vì thuế cao thì chỗ khó phải tạm thời giãn sản xuất). Ảnh hưởng đến hệ số tín nhiệm của TKV trên trường quốc tế, dẫn tới phải vay lãi suất cao hơn, chi phí tăng. Việc cải thiện thu nhập và đời sống công nhân mỏ còn hạn chế.
“Có thể nói, áp lực cả về thuế suất và giá tính thuế, phí sẽ tiếp tục làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, phát sinh thêm chi phí lưu kho, lãi vay và sẽ làm các doanh nghiệp sản xuất khoáng sản lâm vào tình trạng hết sức khó khăn, xu hướng sản lượng đang giảm dần, việc làm công nhân sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thu hẹp hơn. Nếu sản xuất bị thu hẹp, thì vấn đề phục hồi lại sau này sẽ rất khó khăn và tốn kém rất nhiều”, Phó TGĐ Tập đoàn Nguyễn Văn Biên chia sẻ.
Tồn kho cao
Con số tồn kho gần 10 triệu tấn than sạch ở tại thời điểm này được xem “là đáng báo động” về lối thoát giữ ổn định sản xuất và tăng trưởng của ngành Than.
Tính đến hết tháng 6, ngành Than tồn kho xấp xỉ gần 10 triệu tấn. Nguyên nhân khách quan là do sự sụt giảm của thị trường năng lượng hoá thạch thế giới, khiến nhu cầu dùng nhiên liệu từ than đá giảm mạnh. Tình hình tiêu thụ than trong nước từ đầu năm đến nay tiếp tục giảm do các hộ tiêu dùng lớn trong nước như nhiệt điện, xi măng, phân bón đều giảm sản lượng. Các đơn vị sản xuất than khu vực miền Tây như than Nam Mẫu, Uông Bí, Vàng Danh đều có số lượng than tồn khá lớn. Cụ thể, Vàng Danh tồn kho khoảng 300.000 tấn, Uông Bí tồn khoảng 310.000 tấn và Nam Mẫu cũng tương đương với số đó.
Trong khi đó, điều kiện khai thác ngày càng khó khăn do xuống sâu (hệ số đất, cung độ vận chuyển tăng, nhiều mỏ hầm lò xuống sâu -300 : -500m), lợi nhuận của TKV các năm vì thế cũng giảm, thu nhập của người lao động chậm được cải thiện, việc tuyển dụng và giữ chân thợ mỏ ngày càng khó khăn.
Giải pháp: Chủ động và kiến nghị
Trước những khó khăn trên, Ban lãnh đạo Tập đoàn đã có nhiều giải pháp chỉ đạo kịp thời.
Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải chỉ đạo cần phải tập trung vào “3 giảm”: Giảm lượng than tồn kho, giảm nhân lực phụ trợ và cắt giảm chi phí đầu vào. Thực hiện chủ trương đó, các đơn vị trong Tập đoàn đều điều chỉnh giảm sản lượng từ 100.000 đến 300.000 tấn/KH/năm; rà soát lại quy hoạch đầu tư để có thể phải tiếp tục giảm sản lượng trong tương lai; tiếp tục giảm nhân lực lao động phụ trợ, bởi hiện nay lực lượng lao động phụ trợ vẫn rất lớn; cắt giảm chi phí đầu vào, nhất là các chi phí cho công tác vật tư. Gần đây, toàn Tập đoàn đã giảm được chi phí đầu vào khoảng trên 2.000 tỷ đồng, trong thời gian tới sẽ tiếp tục rà soát để cắt giảm tối ưu hơn nữa. Cụ thể những dự án đầu tư chưa thật sự quan trọng cũng sẽ được rà soát để cắt giảm. Tập đoàn cũng đã và đang tập trung đặc biệt cho việc đầu tư công nghệ, cơ giới hoá trong khai thác để nâng cao năng suất và giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, đẩy nhanh tiến độ xây dựng mỏ và tăng cường quản lý công tác đầu tư xây dựng, bảo vệ môi trường…
Song song đó, TKV cũng báo cáo các cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế tài nguyên đối với sản phẩm than ngang với thuế suất của các nước trong khu vực: Khoảng 5-7%, bao gồm cả tiền cấp quyền khai thác (vì bản chất tiền cấp quyền khai thác là thu thuế tài nguyên lần 2 nhưng do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành).
“Thời gian qua, chính sách thuế liên tục thay đổi, ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có dự án đầu tư thì toàn bộ hiệu quả của dự án được xây dựng trên cơ sở chính sách thuế hiện hành. Tuy nhiên, dự án đầu tư có thời gian đầu tư dài thường 5-10 năm, trong khi chính sách thuế chỉ 2, 3 năm đã thay đổi làm tác động đến toàn bộ hiệu quả của dự án do không lường trước được sự thay đổi của chính sách thuế. Có những dự án xây dựng ban đầu là có hiệu quả, tuy nhiên sau khi chính sách thuế thay đổi (như xu hướng hiện này là thuế suất liên tục tăng) thì lập tức dự án sau khi đi vào hoạt động sẽ không còn hiệu quả nữa. Từ thực tế trong quá trình sản xuất kinh doanh, chúng tôi đã có báo cáo và đề xuất các cấp có thẩm quyền xem xét hoàn thiện cơ chế, chính sách để ban hành thống nhất 1 văn bản để dễ thực hiện, kiểm tra, đối chiếu, xem xét ban hành chính sách thuế ổn định và có thời gian áp dụng, thực hiện trong khoảng thời gian dài nhất định”. – Phó TGĐ Nguyễn Văn Biên nhấn mạnh.
Tin rằng, với sự quyết liệt trong chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tập đoàn, sự đồng tâm đoàn kết của thợ mỏ, và sự hỗ trợ từ Chính phủ, tỉnh Quảng Ninh, ngành Than sẽ sớm vượt qua bĩ cực “tứ bề thọ địch”.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/tkv-giua-muon-trung-kho-201609301509015813.htm” button=”Theo vinacomin”]