Kỳ 2: Chuyên môn hóa – Hiện đại hóa công tác xây dựng mỏ theo hướng nào?
Kỳ trước, sau khi phản ánh thực trạng điều kiện sản xuất và đời sống của công nhân Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 2 (HL2), chúng tôi đặt ra các câu hỏi: Một công ty chuyên đào lò, đứng chân ở miền Tây tỉnh Quảng Ninh mà rải quân khắp nơi, “đánh thuê” những công trình cò con, manh mún thì chỉ huy điều hành kiểu gì đây? Thì đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ đời sống công nhân thế nào đây? Thì xây dựng lực lượng tinh nhuệ và
Hôm trung tuần tháng 4, chúng tôi đến Phân xưởng Đ1 (Than Vàng Danh), hỏi ông Nguyễn Văn Hải, Quản đốc về diễn biến lao động của Phân xưởng. Ông Hải cho hay, đã lâu lắm, ở Phân xưởng này chẳng có ai thôi việc. Ngược lại, ở HL2, như đã nêu ở kỳ trước, bình quân mỗi năm có khoảng 100 thợ lò xin thôi việc, trong đó có nhiều thợ bậc cao, tích cực…


Thực tế, vấn đề này không phải bây giờ mới đặt ra mà từ năm 1974, Bộ Điện và Than đã có Công ty Xây dựng Mỏ than, đứng chân ở Uông Bí. Công ty Xây dựng mỏ than khi đó lớn lắm, gồm tám xí nghiệp xây lắp. Ngoài ra, còn trường công nhân kỹ thuật, bệnh viện, v.v, với hơn một vạn công nhân cán bộ; hoạt động trên các lĩnh vực xây dựng mỏ, xây dựng dân dụng, công nghiệp .v.v, địa bàn hoạt động từ Đông Anh tới Quảng Ninh, Quảng Trị. Đảng bộ Công ty có trên năm nghìn đảng viên. Các xí nghiệp của Công ty được đặt tên theo số thứ tự, từ 1 đến 8. Xí nghiệp Xây lắp 4 có nhiệm vụ xây dựng mỏ Mạo Khê (xây dựng hệ thống mở vỉa bằng giếng nghiêng xuống tới âm 80). Xí nghiệp Xây lắp 5 xây dựng Mỏ than Vàng Danh; Xí nghiệp Xây lắp 6 xây dựng Mỏ than Mông Dương v.v. Sau khi xây dựng xong các mỏ, một số đơn vị xây lắp sáp nhập vào mỏ; Xí nghiệp Xây lắp mỏ Mông Dương (tiền thân là Xí nghiệp Xây lắp 6) nay là Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 1; Xí nghiệp Xây lắp mỏ Uông Bí (nhiều CNCB trước đây thuộc Xí nghiệp xây lắp mỏ Vàng Danh), nay là Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 2.
Như vậy, hai công ty xây dựng mỏ của Vinacomin hiện nay đã có truyền thống lâu năm về nghề xây dựng mỏ. Tuy nhiên, nếu xét về thiết bị, công nghệ, suốt mấy chục năm qua, nghề đào lò của ta “dẫm chân tại chỗ”. Bây giờ, một số nơi sử dụng xe khoan, máy xúc đá, cứ tưởng là hiện đại, thực ra, ngày xưa, khi thi công hệ thống sân ga mỏ Mông Dương, người ta đã sử dụng xe khoan 3 choòng rất hiệu quả; đã sử dụng máy xúc đá, máy cào vơ… Những thiết bị được gọi là hiện đại hiện áp dụng chưa rộng rãi. Loại xe khoan tự hành mới chỉ áp dụng tại Vàng Danh, Uông Bí, Nam Mẫu, Mông Dương, Hà Lầm, Hầm lò 1, Hầm lò 2… nhưng một số đơn vị sử dụng không hiệu quả. Công tác bốc xúc công đoạn chiếm nhiều thời gian và công sức nhất trong một chu kỳ đào lò nhưng, theo báo cáo của Ban Xây dựng mỏ, đến năm 2012, tỷ lệ bốc xúc thủ công còn chiếm tới 48% đối với các gương lò than và 25% đối với các gương lò đá. Thời buổi này mà vẫn dùng máy khoan khí ép “cổ lỗ sỹ” và dùng xẻng để xúc đất đá, xúc than thì làm sao mà đẩy nhanh được tiến độ được! Có lần, chúng tôi đã phỏng vấn ông Giám đốc HL2 rằng, sao không đầu tư thiết bị đào lò hiện đại? Ông Giám đốc giải thích, vấn đề quan trọng là việc lựa chọn thiết bị phù hợp với điều kiện địa chất, quy mô công trình…để phát huy hiệu quả. Đầu tư cả đống tiền, đào mấy chục mét lò không nơi nào thuê, chẳng lẽ…”đắp chiếu”?
Vậy, chuyên môn hóa, hiện đại hóa xây dựng mỏ là tất yếu, nhưng phát triển theo hướng nào đây?
Tại hội nghị giao ban công tác điều hành sản xuất Quý II vừa qua, Tổng Giám đốc Lê Minh Chuẩn chỉ đạo: “Tới đây, Tập đoàn sẽ thực hiện chuyên môn hoá các đơn vị thi công xây dựng mỏ. Hai đơn vị xây lắp trong Tập đoàn sẽ được phân công chuyên biệt nhiệm vụ. Hầm lò 1 tập trung đào giếng đứng. Hầm lò 2 sẽ đảm nhận thi công các dự án lò nghiêng, lò bằng”. Đồng thời, Tập đoàn chỉ đạo các đơn vị quyết liệt hơn trong việc áp dụng thiết bị tiên tiến, phát huy tối đa hiệu quả các thiết bị đã đầu tư đặc biệt là xe khoan và máy xúc; đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng yêu cầu sử dụng thiết bị; không kéo dài thời gian sử dụng các công trình tạm trong quá trình thi công đào lò. Ngoài ra, đối với các chủ đầu tư trước khi triển khai dự án hoặc kế hoạch đào lò XDCB hàng năm cần chủ động nghiên cứu, tính toán và lựa chọn đầu tư sớm dây chuyền thiết bị phục vụ thi công sao cho đảm bảo quy mô dự án và điều kiện áp dụng thi công cho từng thiết bị.
Theo chúng tôi, đây là hướng đi đúng, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Thế nhưng, để triển khai ý kiến chỉ đạo của Tổng Giám đốc còn phải tính, phải bàn, phải sắp xếp tổ chức lại sản xuất để tránh sự chồng chéo; để phát huy nguồn lực thiết bị và con người. Việc tính toán sắp xếp thể nào cần sự vào cuộc quyết liệt, trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn, các chủ doanh nghiệp và các chuyên gia.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/tho-dao-lo-noi-niem-khac-biet-tiep-theo-ky-truoc-5198.htm” button=”Theo vinacomin”]