GEOSIMCO
  • Trang chủ
  • Giới Thiệu
  • Tin tức
  • Đời sống
  • Tài chính
Không có kết quả
Xem tất cả kết quả
GEOSIMCO
Không có kết quả
Xem tất cả kết quả
topforexviet.com
Trang chủ Tin tức

Cập nhật Một số vấn đề về thị trường than trong nước –

17/02/2025
trong Tin tức
0
Cập nhật Công điện của Thủ tướng thúc đẩy hoàn thành kế hoạch phát triển KTXH năm 2016 –

Related posts

Nguyên nhân tái cận thị sau mổ lasik

Cập nhật Tái Cận Thị Sau Mổ Lasik Và Những Điều Bạn Nhất Định Phải Biết

17/02/2025
0
Cận thị giả có nên đeo kính không

Cập nhật Cận Thị Giả Là Gì? Cận Thị Giả Có Nên Đeo Kính Không?

17/02/2025
0

Cùng với nền kinh tế quốc dân, ngành Than nước ta từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, trên cơ sở đó thị trường than từng bước được hình thành và phát triển.
 
Cơ sở pháp lý đầu tiên để tạo lập thị trường than là Pháp lệnh giá số 40/2002/PL-UBTVQH10 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X ban hành ngày 26/4/2002 và Nghị định số 170/2003/NĐ-CP ngày 25/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh giá. Trong Danh mục hàng hoá, dịch vụ thực hiện bình ổn giá và Danh mục tài sản, hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá được quy định trong Pháp lệnh giá và Nghị định hướng dẫn thực hiện thì sản phẩm than không thuộc các Danh mục này. Điều đó gián tiếp quy định rằng giá than vận hành theo cơ chế thị trường, đồng thời gián tiếp thừa nhận thị trường than.
 
Tuy nhiên, trong Quyết định số 20/2003/QĐ-TTg ngày 29/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam giai đoạn 2003-2010 có xét triển vọng đến năm 2020” về thị trường than mới chỉ đề ra: “Phát triển ngành Than ổn định, đáp ứng nhu cầu về than cho nền kinh tế quốc dân; bảo đảm thị trường tiêu dùng than trong nước ổn định, có một phần hợp lý xuất khẩu để điều hòa về số lượng, chủng loại và tạo nguồn ngoại tệ”; còn về giá than thì đến năm 2006 mới “tiến tới thực hiện giá bán than theo cơ chế thị trường” và giao “Tổng Công ty Than Việt Nam và các đơn vị sản xuất kinh doanh than khác có nhiệm vụ: tổ chức thực hiện Quy hoạch và chịu trách nhiệm về việc đảm bảo cung cấp than cho nền kinh tế quốc dân”.
 
Vấn đề tạo lập thị trường than mãi đến năm 2008 mới chính thức được đề cập trong “Chiến lược phát triển ngành Than Việt Nam giai đoạn đến năm 2015, định hướng đến năm 2025” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quyết định số 89/2008/QĐ-TTg ngày 07/7/2008, trong đó về quan điểm phát triển thị trường than đã nêu rõ: “Sớm hình thành thị trường than cạnh tranh, hội nhập với khu vực và thế giới, đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh trong ngành Than”.
 
Chiến lược cũng đề ra mục tiêu phát triển về thị trường than là: “chuyển mạnh hoạt động ngành Than theo cơ chế thị trường hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế có sự điều tiết của Nhà nước”.
 
Để đạt mục tiêu nêu trên Chiến lược đề ra định hướng về giá than là: “Giá than cần được xác định phù hợp với cơ chế thị trường để hội nhập với thị trường khu vực và thế giới; Nhà nước điều tiết giá than thông qua chính sách thuế và các công cụ quản lý khác”.
 
Đến ngày 09/01/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030”, trong đó về xây dựng, phát triển thị trường than đã đề ra là:
 
Về Mục tiêu phát triển thị trường Than: “Chuyển nhanh hoạt động ngành Than theo cơ chế thị trường, hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế, có sự điều tiết của Nhà nước”.
 
Về Định hướng phát triển thị trường:
 
– “Định hướng xuất, nhập khẩu than: Đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu thụ than trong nước về chủng loại và khối lượng; xuất khẩu một phần hợp lý theo kế hoạch, chỉ xuất khẩu các chủng loại than trong nước chưa hoặc không có nhu cầu sử dụng; tích cực, chủ động tìm nguồn than nhập khẩu để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài cho đất nước.
 
– Quy hoạch cảng nhập than: Tùy thuộc tiến độ đầu tư các trung tâm nhiệt điện theo quy hoạch, triển khai đầu tư xây dựng mới một số cảng nhập than (hoặc cầu cảng chuyên dụng tại các cảng tổng hợp) tại miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long phục vụ cung cấp than cho các trung tâm nhiệt điện than ở khu vực miền Trung và miền Nam”.
 
Vấn đề quy hoạch đầu tư cải tạo, mở rộng và xây dựng mới hệ thống cảng xuất than phục vụ cho việc tiêu thụ than trong nước cũng được đề ra trong Quy hoạch.
 
Về Cơ chế, chính sách đối với thị trường: “Ngành Than tiếp tục thực hiện lộ trình điều chỉnh giá bán than cho các hộ sử dụng trong nước theo cơ chế thị trường nhằm khuyến khích sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên than, giúp ngành Than ổn định sản xuất, cân đối tài chính, tạo vốn đầu tư để phát triển ngành theo Quy hoạch”.
 
Qua những điều nêu trên cho thấy vấn đề tạo lập thị trường than và ngành Than hoạt động theo cơ chế thị trường đã được đặt ra từ lâu. Tuy nhiên, việc xây dựng và thực hiện thị trường than chủ yếu mới chỉ được đề ra trong Chiến lược và Quy hoạch phát triển ngành Than trong từng giai đoạn. Trong quá trình thực hiện chưa có sự xuyên suốt, nhất quán, đồng bộ trong thể chế, nhất là cơ chế giá than cũng như lộ trình hình thành, phát triển thị trường than; đặc biệt chưa tạo lập được một cách đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường theo hướng tạo dựng một thị trường than hoàn chỉnh có kết cấu hạ tầng đồng bộ, thể chế quản lý, vận hành minh bạch và tính cạnh tranh theo đúng thông lệ thị trường nói chung. Ngành Than chủ yếu vẫn do Nhà nước nắm độc quyền đầu tư từ A đến Z thông qua Tổng Công ty Than Việt Nam trước đây và nay là Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến hiện trạng thị trường than trong nước được phân tích dưới đây.
 
– Về quy mô thị trường: Sản lượng than tiêu thụ trong nước đã có sự tăng lên đáng kể từ mức 10 triệu tấn năm 2002 lên khoảng 28 triệu tấn năm 2013, trong đó chủ yếu là than sản xuất trong nước 27,5 triệu tấn (chiếm 98,2%), còn than nhập khẩu chỉ khoảng 0,5 triệu tấn (chiếm 1,8%), gồm than mỡ khoảng hơn 100 ngàn tấn (dùng cho luyện kim) và than subbitum (hay còn gọi là than nồi hơi hoặc than năng lượng) khoảng 400 ngàn tấn (dùng cho sản xuất điện ở miền Nam).
 
Nguyên nhân chính là do trong thời gian qua so với nhu cầu thì nguồn cung than trong nước (trừ than mỡ làm cốc) khá dồi dào và có giá cạnh tranh hơn than nhập khẩu. Tuy nhiên, mối tương quan này đang ngày càng mất dần như sẽ phân tích dưới đây.
 
– Về các nhà cung cấp than: cho đến nay Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) là nhà cung cấp than chủ yếu trên thị trường than trong nước (chiếm tới 98%) và là nhà xuất khẩu than duy nhất.
 
Nguyên nhân là do TKV là tập đoàn kinh tế nhà nước được giao nhiệm vụ chính trong việc khai thác và cung ứng than cho nền kinh tế và là một trong 3 trụ cột đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
 
Vừa qua, thực hiện tái cơ cấu Tập đoàn TKV thì Tổng Công ty Đông Bắc  một công ty con của TKV được tách ra khỏi Tập đoàn TKV và trở thành tổng công ty độc lập do Bộ Quốc phòng quản lý toàn diện.
 
Như vậy, từ năm 2014 ngoài Tập đoàn TKV sẽ có các đơn vị khai thác, cung cấp than cho thị trường trong nước gồm Tổng Công ty Đông Bắc, Tổng Công ty 319 (đều là của Bộ Quốc phòng), Vietmindo (doanh nghiệp FDI) và một số đơn vị khác đã và sẽ được cấp phép khai thác than cùng hoạt động trên địa bàn Quảng Ninh; về kinh doanh nhập khẩu than, ngoài Tập đoàn TKV, các Tập đoàn PVN, EVN, v.v. đã và đang thành lập các công ty nhập khẩu than từ nước ngoài. Ngoài ra, các công ty nước ngoài cũng sẽ chủ động xuất khẩu than vào Việt Nam khi nhu cầu than trong nước vượt quá khả năng khai thác trong nước và có giá cạnh tranh hơn.
 
Tóm lại, sắp tới trên thị trường than trong nước vừa có nhiều đối thủ cạnh tranh cả trong và ngoài nước, vừa có sự cạnh tranh giữa than trong nước và than nhập khẩu từ nước ngoài.
 
– Về cơ chế giá than: Như trên đã nêu theo quy định của Pháp lệnh giá (2002) thì than là mặt hàng không thuộc diện bình ổn giá cũng như không thuộc diện Nhà nước định giá. Giá than được thực hiện theo cơ chế thị trường.
 
Tuy nhiên, trong thời gian qua do than là đầu vào chính của một số mặt hàng thuộc Danh mục hàng hoá thực hiện bình ổn giá theo Điều 6 Pháp lệnh Giá như xi măng, sắt thép, phân bón hoặc do Nhà nước định giá theo Điều 7 Pháp lệnh Giá như điện nên trên thực tế giá than vẫn do Nhà nước quản lý. Việc xác định và điều chỉnh giá than phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoặc phê duyệt, nhất là đối với giá than bán cho các hộ sản xuất điện, xi măng, phân bón và giấy.
 
Cụ thể là tại Quyết định số 20/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam giai đoạn 2003-2010 có xét triển vọng đến năm 2020”, trong đó đã nêu rõ “Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan căn cứ vào từng thời kỳ, tình hình sản xuất và tiêu thụ than, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định giá bán than hợp lý cho bốn hộ tiêu thụ than lớn: điện, xi măng, giấy và đạm theo nguyên tắc bù đắp đủ chi phí sản xuất hợp lý để tiến tới thực hiện giá bán than theo cơ chế thị trường vào năm 2006”.
 
Mặc dù vậy, đến năm 2012 trong Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030” vẫn đề ra: “Ngành Than tiếp tục thực hiện lộ trình điều chỉnh giá bán than cho các hộ sử dụng trong nước theo cơ chế thị trường”.
 
Chính vì vậy mãi đến năm 2013 giá than bán cho bốn hộ tiêu thụ than lớn: điện, xi măng, giấy và đạm, nhất là đối với hộ điện vẫn thấp hơn giá thành, ngành Than phải tăng cường xuất khẩu than để lấy lợi nhuận từ xuất khẩu bù đắp chi phí cho phần than bán cho 4 hộ nêu trên và đầu tư phát triển mở rộng sản xuất. Đó là nguyên nhân chính làm cho sản lượng than xuất khẩu tăng cao trong thời gian qua, thậm chí trong nhiều năm sản lượng than xuất khẩu vượt xa sản lượng than tiêu thụ trong nước, không thực hiện được định hướng “có một phần hợp lý xuất khẩu để điều hòa về số lượng, chủng loại và tạo nguồn ngoại tệ” đã đề ra trong Quy hoạch phát triển ngành Than đã được phê duyệt theo Quyết định số 20/2003/QĐ-TTg và Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg.
 
Hiện nay, theo quy định của Luật giá (2012) và Nghị định 177/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá thì than chỉ thuộc diện hàng hóa phải kê khai giá, còn giá than vận hành theo cơ chế thị trường. Việc kê khai giá than do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh than thực hiện theo quy định của Nghị định 177/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.
 
Như vậy, theo quy định của Luật Giá, kể từ nay giá than mới thực sự vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó vừa tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Than nói chung, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh than nói riêng phấn đấu tiết kiệm chi phí, khai thác tận thu tài nguyên, chủ động phương án kinh doanh theo hướng có hiệu quả cao nhất để tăng cường tích lũy cho đầu tư phát triển, nâng cao sản lượng nhằm đáp ứng nhu cầu than trong nước ngày càng tăng cao, vừa buộc các hộ tiêu thụ than sử dụng than hợp lý, tiết kiệm và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong sản xuất, kinh doanh than.
 
Trong thời gian tới thị trường than trong nước sẽ có một số vấn đề chính như sau:
 
a) Nhu cầu than tăng rất cao
 
Theo dự báo trong Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg thì nhu cầu than trong nước thời gian tới sẽ tăng rất cao, cụ thể là (triệu tấn – theo P/a cơ sở): đến năm 2015: 56,2; năm 2020: 112,3; năm 2025: 145,5; năm 2030: 220,3.
 
Tuy nhiên, có thể nhu cầu than dự báo nêu trên là quá cao. Song, ngay cả khi nhu cầu than thực tế chỉ bằng khoảng 80% nhu cầu dự báo thì cũng đã là rất cao, khi đó đến năm 2015 sẽ là 45 triệu tấn, tăng so với năm 2013 là 17 triệu tấn (bình quân mỗi năm tăng 8,5 triệu tấn, bằng sản lượng của 4 mỏ hầm lò cỡ lớn) và đến năm 2020 là 90 triệu tấn, tăng so với năm 2013 là 62 triệu tấn (bình quân mỗi năm tăng 12,4 triệu tấn, bằng sản lượng của 6 mỏ hầm lò cỡ lớn). Rõ ràng mức tăng đó là quá cao so với tiến độ xây dựng các mỏ than mới và khả năng nâng cao sản lượng than trong nước như sẽ nêu dưới đây.
 
b) Nguồn cung ứng than trong nước gặp nhiều khó khăn và quá thấp so với nhu cầu
 
– Thứ nhất, tài nguyên than đã được thăm dò có khả năng huy động vào khai thác bị suy giảm và mức độ tin cậy thấp. Theo báo cáo của TKV về tình hình thực hiện Quy hoạch phát triển than đã được phê duyệt theo Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg (sau đây gọi là QH60) thì tổng trữ lượng và tài nguyên bể than Đông Bắc và vùng Nội địa giảm 1.875.988 ngàn tấn so với QH60, tức giảm 20,8%. Tính đến 31/12/2013 tổng trữ lượng và tài nguyên bể than Đông Bắc và vùng Nội địa còn lại là 6.933.125 ngàn tấn, trong đó phần tài nguyên đạt cấp trữ lượng rất thấp, chỉ khoảng 30%. Ngoài ra, việc khai thác bể than Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) không những chưa rõ về công nghệ và giải pháp bảo vệ môi trường mà ngay cả khả năng khai thác thử nghiệm đã dự kiến trong QH60 được duyệt cũng bị lùi lại và chưa biết sẽ làm ở địa điểm nào và khi nào bắt đầu.
 
– Thứ hai, khả năng nâng cao sản lượng khai thác bị hạn chế và giảm so với Quy hoạch đã được duyệt.
Theo QH60, sản lượng than thương phẩm dự kiến đến năm 2030, kể cả than Đồng bằng Sông Hồng là (triệu tấn): đến năm 2015: 57,4; 2020: 62,8; 2025: 70,0; 2030: 75,7.
 
Đến nay, theo báo cáo của TKV về tình hình thực hiện QH60 nêu trên, do chưa thể khai thác than Đồng bằng Sông Hồng và do suy giảm tài nguyên, trữ lượng than nên khả năng tối đa chỉ đạt sản lượng khoảng 55 triệu tấn/năm.
 
Như vậy, so sánh nhu cầu dự báo và khả năng khai thác trong nước cho thấy từ năm 2015 sẽ thiếu than và đến năm 2020 tối đa chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu.
 
– Thứ ba, nhu cầu vốn đầu tư tăng cao.
 
Theo tính toán trong QH60 tổng nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện QH trong giai đoạn 2012 – 2030 là 690.875 tỉ đồng, b/q 36.362 tỉ đồng/năm, trong đó đầu tư mới 29.797 tỉ đồng và đầu tư duy trì công suất là 6.565 tỉ đồng; nếu không kể vốn đầu tư khai thác than ĐBSH thì bình quân khoảng hơn 32 ngàn tỉ đồng/năm (tương đương khoảng 1,5 tỉ USD/năm), trong đó đầu tư mới khoảng 26 ngàn tỉ đồng/năm.
 
Với nhu cầu vốn đầu tư mới nêu trên thì mỗi năm nguồn vốn chủ sở hữu để làm vốn đối ứng phải có ít nhất khoảng 7,5-8,0 ngàn tỉ đồng; trong khi với nguồn khấu hao cơ bản và nguồn vốn quỹ đầu tư phát triển trích lập từ lợi nhuận sau thuế để lại của Tập đoàn TKV tối đa chỉ đáp ứng được khoảng 30-35%. Như vậy, nguồn vốn đầu tư cho phát triển than trong thời gian tới sẽ thiếu trầm trọng so với nhu cầu.
 
– Thứ tư, giá thành khai thác tăng cao, lợi nhuận giảm do các nguyên nhân chính sau:
 (1) Do phần trữ lượng than có điều kiện khai thác thuận lợi, giá thành thấp đã cạn kiệt, phải chuyển sang khai thác phần trữ lượng than có điều kiện khai thác khó khăn, phức tạp, chi phí tăng cao. Ngoài ra, phần trữ lượng than có chất lượng tốt, giá bán cao cạn kiệt dần, chủ yếu chỉ còn lại phần trữ lượng than chất lượng thấp, giá bán thấp.
 
(2) Chính sách thuế, phí, nhất là thuế tài nguyên, phí môi trường, tiền cấp quyền khai thác, v.v. đối với khoáng sản nói chung và đối với than nói riêng ngày càng tăng cao.
Giá thành than tăng cao không những làm giảm lợi nhuận, dẫn đến làm giảm quỹ đầu tư phát triển mà còn làm giảm khả năng cạnh tranh với than nhập khẩu.
 
c) Nguồn than nhập khẩu còn nhiều ẩn số
 
Để đáp ứng nhu cầu than, QH60 đã đề ra chủ trương nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than đưa về nước.
 
Tuy nhiên, việc nhập khẩu than dài hạn với khối lượng hàng chục triệu đến hơn trăm triệu tấn/năm là vô
cùng khó khăn do nguồn cung than ngày càng hạn chế trong khi nhu cầu than của các nước ngày càng tăng với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Muốn có nguồn than ổn định phải đầu tư mua mỏ ở nước ngoài để khai thác. Nhưng đây là dạng đầu tư nhiều rủi ro và cơ hội mua mỏ ở các nước có tiềm năng về than như Indonesia, Úc, v.v. đã không còn dễ do các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,… đã triển khai đầu tư mua mỏ ở các nước đó từ lâu. Hơn nữa, để có thể nhập khẩu than với khối lượng lớn nêu trên ngoài đội tàu vận tải biển hùng hậu cần phải có hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ phục vụ nhập khẩu than như hệ thống cảng, bến bãi, kho chứa, v.v. Muốn vậy, cần phải có quy hoạch địa điểm các hộ sử dụng than nhập khẩu, thời điểm và chủng loại than nhập khẩu. Nhưng hiện nay, tất cả những vấn đề này đều còn là ẩn số.
 
Sau đây đề xuất các giải pháp lớn về thị trường và đáp ứng nhu cầu than trong nước:
 
1)  Nhóm giải pháp tạo lập thị trường than cạnh tranh, công khai, minh bạch
 
Đẩy nhanh việc hoàn thiện và xây dựng đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường theo hướng tạo dựng một thị trường than hoàn chỉnh có kết cấu hạ tầng đồng bộ, thể chế quản lý, vận hành minh bạch, công khai và tính cạnh tranh theo đúng thông lệ thị trường. Đặc biệt, để đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cần tăng cường năng lực và chất lượng quản lý nhà nước về thị trường cũng như về công tác quy hoạch, cấp phép, quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động khai thác, kinh doanh than, nhất là về các mặt đảm bảo khai thác hợp lý, giảm tổn thất tài nguyên, đảm bảo an toàn, bảo vệ môi trường và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các trách nhiệm xã hội theo quy định của pháp luật.
 
2) Nhóm giải pháp đảm bảo sản lượng than khai thác trong nước
 
– Đẩy mạnh công tác thăm dò nâng cấp tài nguyên với mức độ tin cậy cao để đảm bảo đủ trữ lượng than đưa vào khai thác. Trong đó Chính phủ phải chỉ đạo quyết liệt để khẩn trương cấp phép thăm dò cho Tập đoàn TKV là đơn vị chủ lực được giao nhiệm vụ chính thực hiện QH60 – để triển khai thực hiện công tác thăm dò theo đúng tiến độ. Chỉ cấp phép khai thác than cho các đơn vị khác có đủ năng lực thực sự theo quy định.
 
– Phát huy tối đa lợi thế khai thác lộ thiên trên cơ sở nâng cao hệ số bóc tối đa bằng cách áp dụng các thiết bị công nghệ đồng bộ công suất lớn và hình thức vận tải liên tục.
 
– Đối với khai thác than hầm lò: áp dụng đồng bộ các biện pháp như tích cực nghiên cứu tìm kiếm công nghệ khai thác thích hợp đi đôi với đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa đến mức cao nhất trên cơ sở hợp tác bằng các hình thức thích hợp với các đối tác nước ngoài có năng lực về công nghệ, chế tạo thiết bị và tài chính theo hướng tăng cường nội địa hóa khâu chế tạo thiết bị, phụ tùng phục vụ cơ giới hóa; đẩy nhanh việc nghiên cứu công nghệ khai thác than tại các khu vực cần phải bảo vệ nghiêm ngặt bề mặt hoặc nằm dưới các vùng quy hoạch của địa phương; nâng cao tốc độ đào lò để đảm bảo đưa các dự án hầm lò mới vào hoạt động theo đúng tiến độ; cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn lao động và có chính sách thích đáng thu hút công nhân hầm lò.
 
– Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên cơ sở triệt để tiết giảm chi phí, nâng cao NSLĐ, chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng.
 
– Nhà nước cần có cơ chế chính sách hợp lý để tạo vốn đầu tư phát triển nâng cao sản lượng than và khuyến khích khai thác tận thu tối đa tài nguyên, bao gồm điều chỉnh giảm mức vốn đối ứng của chủ đầu tư xuống mức hợp lý tùy theo quy mô vốn của từng dự án; kiên quyết thực hiện giá than trong nước theo cơ chế giá thị trường; điều chỉnh các chính sách thuế, phí đối với tài nguyên khoáng sản và than theo hướng khuyến khích khai thác tận thu tối đa tài nguyên; cho phép kết hợp xuất, nhập khẩu than một cách hợp lý vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu than trong nước, vừa có hiệu quả kinh tế cao; bảo lãnh hoặc có chính sách thích hợp hỗ trợ ngành Than vay vốn phù hợp với từng dự án, nhất là các dự án khai thác than ĐBSH; tạo điều kiện tăng cường xã hội hóa đầu tư khai thác than theo nguyên tắc“cái gì xã hội làm được và làm có hiệu quả hơn thì để xã hội làm”.
 
– Hợp tác với các đối tác nước ngoài đẩy nhanh việc nghiên cứu tìm kiếm công nghệ khai thác hợp lý và khai thác thử nghiệm tại Bể than ĐBSH để làm cơ sở cho việc triển khai trên quy mô lớn công tác thăm dò và khai thác trong tương lai khi có đủ điều kiện.

3) Nhóm giải  pháp chế biến và sử dụng than tiết kiệm nhằm giảm nhu cầu và ô nhiễm
 
– Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương xây dựng và ban hành chính sách sử dụng than hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, nhất là về chủng loại và chất lượng phù hợp cho các hộ sử dụng than; khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo; hạn chế sử dụng vật liệu nung, khuyến khích sử dụng vật liệu không nung; quy hoạch lại các làng nghề đang sử dụng than có hiệu suất thấp và gây ô nhiễm môi trường.
 
– Đẩy mạnh nghiên cứu chế biến than nhằm tạo ra sản phẩm than sạch và than cho luyện kim để giảm nhập khẩu và sử dụng tiết kiệm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
 
4) Nhóm giải pháp đảm bảo nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than
 
– Khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than đưa về phục vụ trong nước; đồng thời có các giải pháp về cơ chế chính sách thích đáng tạo điều kiện cho các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài khai thác than.
 
– Đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống cảng, bến bãi và năng lực vận chuyển phục vụ nhập khẩu than.
 

[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/mot-so-van-de-ve-thi-truong-than-trong-nuoc-7822.htm” button=”Theo vinacomin”]

Bài trước

Cập nhật Đọng lại một cuộc thi tuyển giám đốc –

Bài sau

Cập nhật Tái cơ cấu cơ khí sẽ khó hơn –

Bài sau
Cập nhật Công điện của Thủ tướng thúc đẩy hoàn thành kế hoạch phát triển KTXH năm 2016 –

Cập nhật Tái cơ cấu cơ khí sẽ khó hơn –

Chuyên mục

  • Ẩm thực (94)
  • Ăn Ăn Uống Uống (1)
  • Android (1)
  • Chưa phân loại (1)
  • Chuyện lạ (229)
  • Du lịch (1)
  • Đời sống (156)
  • Gia đình (411)
  • Giới trẻ (200)
  • iOS (1)
  • Khoa học thường thức (1)
  • Mẹo vặt (3)
  • Tài chính (66)
  • Tâm sự (109)
  • Thể thao (10)
  • Tin tức (5.048)

Tin phổ biến

Plugin Install : Popular Post Widget need JNews - View Counter to be installed
GEOSIMCO

Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 989/QĐ-TTg về việc chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Chuyên mục

  • Ẩm thực
  • Ăn Ăn Uống Uống
  • Android
  • Chưa phân loại
  • Chuyện lạ
  • Du lịch
  • Đời sống
  • Gia đình
  • Giới trẻ
  • iOS
  • Khoa học thường thức
  • Mẹo vặt
  • Tài chính
  • Tâm sự
  • Thể thao
  • Tin tức
  • Privacy Policy

LIÊN KẾT

Bitcoin news Vay tiền online

© 2020 - 2024 by GEOSIMCO.VN

sancrypto.net
Không có kết quả
Xem tất cả kết quả
  • Home

© 2020 - 2024 by GEOSIMCO.VN

apkfrlegends.com igram.dev