Vừa qua, việc di dời tượng Đức Ông cao 10 m, nặng 40 tấn ở đền Cửa Ông (TP. Cẩm Phả, Quảng Ninh) được thực hiện trong lễ rước của nhiều phật tử. Cấu trúc đền Cửa Ông Đền Cửa Ông được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 gồm 3 khu vực chính: Đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Đây là đền độc nhất thờ đầy đủ thất gia Trần Quốc Tuấn và các cận thần của ông còn lại đến hiện tại với 34 pho tượng lớn nhỏ được trạm trổ công phu tận tường, có giá trị nghệ thuật cao thể hiện rõ nét những vị tướng đã có công xây dựng nước.
Đó là các tượng của Trần Quốc Tuấn, tượng Thánh Mẫu (vợ ông) 2 cô công chúa (con ông), Trần Quốc Tảng, Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Lê Phu Trần, Đỗ Khắc Trung… và một số câu đối, đồ thờ cúng khác.
Đền ban đầu gọi là Miếu Hoàng tiết chế, thờ Hoàng Cần, một người địa phương có nhiều công đánh phá giặc cướp, được các triều vua phong “Khâm sai Đông Đạo Tiết chế”, sau thờ Trần Quốc Tảng, con trai thứ ba của Trần Quốc Tuấn, có công trấn ải vùng Cửa Suốt. Đền Cửa Ông được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận xếp hạng khu di tích lịch sử quốc gia và là một trong những di tích lịch sử văn hóa nhà Trần nổi tiếng của vùng Đông Bắc.
Tướng quân Trần Quốc Tảng giữ vùng biên cương Đông Bắc Tổ quốc
Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng là con thứ 3 của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc. Trong tín ngưỡng thờ nhà Trần, Trần Quốc Tảng là giá thứ 2 (sau Giá Đức Ông Trần Hưng Đạo), Ngài ra tay sát quỷ trừ tà, ban dấu mặn,… Ngoài Đức Ông Cửa Suốt, Ngài còn được gọi là Đức Ông Đệ Tam, Đức Ông Đông Hải, …
Trong lịch sử nghìn năm dựng nước, tại những vùng biên cương của Tổ quốc, các vương triều nước ta, luôn cắt cử những vị tướng tài ra trấn giữ. Sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông thắng lợi rực rỡ lần thứ hai (1285), vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn càng nhận rõ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của vùng biển đảo Đông Bắc. Đó cũng là lý do Trần Quốc Tảng, một vị tướng tài được cử ra trấn giữ vùng biên cương này.
Năm Trùng hưng thứ nhất (1285), quân Nguyên Mông xâm lược đất nước ta lần thứ hai. Được tin đại quân do Trần Hưng Đạo phải đối phó với thế mạnh như chẻ tre của giặc, rút về Vạn Kiếp, Trần Quốc Tảng liền mang quân của mình từ trang ấp riêng tại An Sinh (Đông Triều), cùng các cánh quân Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm hội binh, xin làm tiên phong đánh giặc. Sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi, Trần Quốc Tảng là dũng tướng có công nên được nhà vua khen tặng cấp cho đất lập trang ấp tại Tĩnh Bang (Quảng Ninh). Sau này, ông hai lần được vua cắt cử ra Cửa Suốt trấn ải.
Sử sách có ghi Trần Quốc Tảng bị đày ra Tĩnh Bang vì tội bất trung, bất hiếu. Nguyên chỉ vì câu nói buột mồm khi đang họp, muốn nói sự mất đoàn kết trong nội tộc họ Trần – “Thù nhà chưa xong nói chi nợ nước”. Trong cuốn “TRẦN TRIỀU HIỂN THÁNH CHÍNH KINH TẬP BIÊN”, in năm Thành Thái (1900) có chép như sau: “Quốc Tuấn công cho rằng, con trai tính ưa cương dũng ấy (tức Trần Quốc Tảng), không theo đúng đạo làm con, bèn nổi giận lôi đình, đày ra cửa bể Suất Ti Tuần thuộc phủ Hải Ninh, lộ An Bang”.
Thực ra, hành động của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đối với Trần Quốc Tảng, bắt đầu từ nguyên do sâu xa là nội bộ Hoàng tộc lục đục, bất hòa. Điển hình là Trần Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn, ông nội Trần Quốc Tảng) mâu thuẫn với Thái sư Trần Thủ Độ và vua Trần Thái Tông. Trong cuốn TRẦN TRIỀU THẾ PHẢ HÀNH TRẠNG đã chép việc đó, mà người phải hứng chịu chính là Trần Quốc Tảng như sau:
“Khi An Sinh Vương (Trần Liễu), sắp mất, cầm tay Quốc Tuấn và trăn trối rằng: Mày mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt – Ý nói Quốc Tuấn phải cướp được ngôi của nhà Trần để trả thù Trần Liễu bị Trần Thủ Độ ép buộc người vợ kế của mình đang có mang lấy Trần Cảnh, tức vua Trần Thái Tông, em ruột của Trần Liễu. Trần Liễu phẫn uất, chiêu tập binh mã nổi dậy bên bờ sông Cái, chống lại Trần Thủ Độ, nhưng thất bại bị lột hết áo mũ. Quốc Tuấn để bụng, nhưng không bao giờ cho thế là phải”.
Đến khi trở thành Quốc Công Tiết Chế, Tổng chỉ huy quân đội, nắm quyền tối cao, Quốc Tuấn đem lời cha dặn khi trước, hỏi ý kiến các tướng tâm phúc như: Yết Kiêu, Dã Tượng và con trai là Hưng Vũ Vương. Cả ba người đều ngăn cản, khiến Quốc Tuấn rất mát lòng. Một hôm, Quốc Tuấn đem câu trăng trối của cha hỏi Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, ông bèn nói: Thái tổ là một ông lão làm ruộng mà thừa cơ dấy vận cũng được thiên hạ. Quốc Tuấn nghe vậy bèn rút gương kể tội Trần Quốc Tảng: Kẻ làm phản loạn là do ở đứa con bất hiếu, ý muốn giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương nghe tin vội chạy đến kêu khóc xin cho Quốc Tảng, lúc đó Quốc Tuấn mới tha cho và bảo rằng: Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Quốc Tảng vào. Sau khi Hưng Nhượng Vương ra trấn giữ cửa Suốt, năm Trùng Hưng thứ tư (1288) quân Nguyên lại kéo quân sang xâm lược. Hưng Nhượng Vương xin triều đình lập công chuộc tội. Được chuẩn tấu, Hưng Nhượng Vương tiến quân, lập đồn ở Trắc Châu, huyện Thanh Lâm. Trải qua ba ngày đêm, ông đem quân đánh thẳng vào trại của quân Nguyên đóng ở sông Bạch Đằng và chiến thắng oanh liệt. Từ đó ông được cử làm Suất Ti Tuần Đại An, trấn giữ cửa bể Cửa Suốt .
Như vậy, chúng ta để ý rằng, lần đầu bị tội mà Trần Quốc Tảng bị cha đày ra Cửa Suốt. Lần thứ 2, nhờ lập được công lớn, Trần Quốc Tảng lại được vua Trần cử ra Cửa Suốt trấn giữ. Hai lần trấn nhậm Cửa Suốt với hai tư thế, hai thể thức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một trọng trách giữ gìn một nơi quan ải Đông Bắc. Trong thời kỳ bình công, khen thưởng cuối năm 1288, Trần Quốc Tảng được sắc phong là Tiết độ Sứ. Từ năm 1288 đến khi qua đời, phần lớn thời gian Trần Quốc Tảng giành cho việc trấn giữ vùng Đông Bắc này của Tổ quốc. Do những công lao to lớn mà vua Trần Anh Tông (đồng thời cũng là con rể của Trần Quốc Tảng), phong tước hiệu Hưng Nhượng Vương.
Sách sử ghi lại những ngày cuối đời của Trần Quốc Tảng ở Cửa Suốt như sau: "Ông ra Cửa Suốt được ba ngày, tự nhiên trời mưa to, gió lớn, sấm sét nổ ầm ầm. Ông thấy một phiến đá to bèn ngồi lên. Ngay lúc đó sóng nổi cuồn cuộn, nước dâng lên rất cao. Phiến đá tự nổi trên mặt nước, Hưng Nhượng Vương hóa thân ở đó, vào ngày 16/8/1311. Một lúc sau mưa tịnh, gió lặng, dân chúng kéo đến xem, thấy trên phiến đá có một cái mũ đá, mũ đá trôi đi. Ngày 1/9 năm ấy, mũ đá trôi đến địa giới Hàm Giang, rồi đến bờ sông xã Trúc Châu (tên tục là Vườn Nhãn). Già trẻ, lớn, bé trong xã đang đêm hôm đó mộng thấy một người cân đai, áo mũ chỉnh tề, đứng ở đình làng bảo rằng: “Ta là Gia Tướng nhà Trần, nay số đã hết, lại trở về đóng nơi đồn cũ giữ yên dân, nước”. Hôm sau, dân chúng ra đình xem, thấy một tảng đá và một mũ đá bên bờ sông. Đo phiến đá được 5 thước 4 tấc, ngang 2 thuớc 3 tấc, có 5 màu huyền ảo như mây. Dân làm lễ đón mũ đá về lập miếu thờ và làm biểu tâu lên vua. Vua thấy Trần Quốc Tảng là người có công, lại linh ứng nên truyền cho lập miếu thờ và phong cho làm Thượng đẳng Phúc Thần, cho 800 quan tiền công hàng năm hai mùa cúng tế vào bậc Nhà nước”. Năm 1314, đúng một năm sau Trần Minh Tông lên ngôi, đã truy tặng Trần Quốc Tảng chức Thái úy. Nhân dân truyền tụng ca ngợi Trần Quốc Tảng như sau:
Đời Trần thị mở mang Nam Hải
Đức Đệ Tam dòng dõi kim chi,
Mấy phen giáp mã truy chùy,
Đã bình Phạm đảng lại đi phạt Sầm.
Phong Đại Vương an tâm thần chức
Lại đem câu yến dực ra bàn.
Nghĩa rằng đạo hiếu chu toàn.
Nào ngờ phải bước tiếng oan ở đời.
Dạ gang tấc khổ bày khúc trực
Để thanh thiên vằng vặc sáng soi.
Mấy năm tính kế cùng ai.
Đành rằng đem xuống Tuyền đài cho cam.
(Viết theo THẦN ĐỀN CỬA ÔNG)
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/tuong-duc-ong-da-len-doi-cao-201802091501235574.htm” button=”Theo vinacomin”]