Thuế tài nguyên không những không giảm mà còn tăng lên làm cho thuế tài nguyên của Việt Nam vốn đã cao nhất thế giới lại cao thêm, đi ngược lại với tinh thần của chính sách coi tài nguyên khoáng sản là nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội…
Đặc biệt, việc Bộ Tài chính vừa có văn bản báo cáo Thủ tướng liên quan tới việc Bộ Công Thương đề nghị giảm thuế với than và cho phép đẩy mạnh xuất khẩu than để giảm tồn kho, hỗ trợ ngành than giải quyết khó khăn; trong đó, Bộ Tài chính khẳng định “thuế với than đã hợp lý” và việc đề xuất giảm mức thuế suất với than là “chưa phù hợp” lại một lần nữa “làm khó” những người thợ mỏ. Trong bài PV này, PGS – TS. Nguyễn Cảnh Nam (PGS – TS. NCN) – một chuyên gia gắn bó lâu năm với hòn than – sẽ thẳng thắn chia sẻ quan điểm của Ông về vấn đề trên.
P.V: Xin chào Phó Giáo sư! Gần đây, cử tri Quảng Ninh đã kiến nghị giảm thuế tài nguyên đối với than; tiếp theo căn cứ vào kiến nghị của Bộ Công Thương, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng có ý kiến yêu cầu Bộ Tài chính rà soát, nghiên cứu chính sách thuế suất thuế tài nguyên khoáng sản, đề xuất báo cáo Thủ tướng Chính phủ để trình Quốc hội xem xét việc điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên cho phù hợp với tình hình thực tế. Tiếc rằng, câu trả lời của Bộ Tài chính là lập tức có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, trong đó khẳng định “thuế với than đã hợp lý” và việc đề xuất giảm mức thuế suất với than là “chưa phù hợp”… Vậy Bộ Tài chính đã căn cứ trên những lập luận nào để đưa ra những khẳng định vội vàng như thế, thưa Phó Giáo sư?
PGS – TS. NCN:
Vừa qua, Bộ Tài chính đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, trong đó khẳng định “thuế với than đã hợp lý” và việc đề xuất giảm mức thuế suất với than là “chưa phù hợp” với một số lập luận rằng:
Thứ nhất: Thuế xuất khẩu than đá đang áp dụng 10% (mức thấp nhất của khung thuế do Quốc hội quy định từ 10-45%). Mức thuế này tương đương thuế xuất khẩu than của Trung Quốc áp dụng.
Thứ hai: Thuế bảo vệ môi trường với than đang áp dụng từ 10.000 – 20.000 đồng/tấn (tùy loại) – mức thấp nhất trong khung thuế do Quốc hội quy định (10.000 – 50.000 đồng/tấn). Thuế môi trường với than của Việt Nam áp dụng cũng thấp hơn nhiều nước, như Trung Quốc (đang áp dụng từ 25.600 – 118.400 đồng/tấn), Đan Mạch, Đức…
Thứ ba: Thuế tài nguyên với than đá có mức tối đa là 20%, nhưng hiện chỉ thu từ 10% – 12% (tùy loại) – thấp hơn khung tối đa. Về phí, lệ phí với than có khung từ 10.000 – 30.000 đồng/tấn, mức cụ thể do Hội đồng Nhân dân các tỉnh, thành quyết định.
Thứ tư: Để góp phần bảo vệ tài nguyên than, đảm bảo hợp lý tài nguyên than cho sản xuất điện, việc quy định chính sách thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường với than trong thời gian qua là phù hợp. Việc đề xuất giảm mức thuế suất với than là chưa phù hợp.
P.V: Thoạt nghe, những lập luận của Bộ Tài chính khá logic và hợp lý. Tuy nhiên, dư luận nói chung và cử tri Quảng Ninh nói riêng hoàn toàn không thỏa mãn với câu trả lời này. Và thực tế, sức nặng thuế phí vẫn oằn nặng lên hòn than, trên đôi vai của những người thợ mỏ. Quan điểm của Ông về vấn đề này thế nào, thưa Ông?
PGS – TS. NCN: Trên góc độ của 1 chuyên gia ngành Mỏ, tôi thấy những lập luận của Bộ Tài chính có khá nhiều những bất cập.
1.Có sự “định hướng dư luận” nhằm tạo cảm giác “hưởng ứng” theo ý kiến chủ quan của Bộ Tài chính. Cụ thể là khi nêu mức thuế tài nguyên của các nước: Ca-na-đa (cao nhất là 16%), Ác-hen-ti-na (3%), Chi-lê (cao nhất là 14%), Myanmar (cao nhất là 7,5%) chỉ nêu mức thuế theo % mà không nêu cụ thể % trên cái gì (căn cứ tính thuế) để đảm bảo sự so sánh được.
Trên thực tế căn cứ tính thuế của Ác-hen-ti-na là “lãi gộp”, của Ca-na-đa là “lợi nhuận”, của Chi-lê là “lợi nhuận”. Như vậy, nếu tính theo “doanh thu” thì mức thuế của các nước nêu trên “cực kỳ thấp” so với Việt Nam. Hoặc chỉ nêu tên nước để tạo cảm giác “số nhiều” mà không nêu “cụ thể” mức thuế của các nước đó, ví dụ như trường hợp thuế bảo vệ môi trường thì nêu: Đan Mạch, Đức…
2.Lấy các minh chứng, minh họa thực tế của nước ngoài nhưng lại không có cùng điều kiện tương tự với Việt Nam để so sánh các sắc thuế, phí từ A đến Z đối với than, qua đó đối chiếu để cho thấy “xét trên tổng thể” là cao hay thấp, mà chỉ chọn nêu những loại thuế, phí cao của từng nước để so sánh, hoặc lấy những nước không cùng điều kiện để minh họa.
Ví dụ, khi nêu thuế bảo vệ môi trường đối với than chỉ nêu thuế môi trường của Trung Quốc từ 25.600 – 118.400 đồng/tấn và qua đó nói thuế môi trường của Việt Nam thấp hơn nhiều mà chưa đề cập các khoản phí môi trường ở Trung Quốc ra sao, liệu có không? Đặc biệt lờ đi một thực tế rằng ở Trung Quốc đối với than có 2 khoản thuế tài nguyên: Thuế tài nguyên (Resource Tax) từ 2 đến 8 NDT/tấn (tương đương khoảng 7 đến 28 ngàn VND/tấn) và Compensation Fee for Mineral Resource (tạm dịch Phí bồi hoàn tài nguyên khoáng sản) là 0,5% – 4% doanh thu. Tổng cộng hai khoản thuế này là quá thấp so với tổng mức thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác đối với than của Việt Nam.
Hoặc khi nêu Myanmar, Đan Mạch để minh họa – tiếc rằng 2 nước này có ngành khai thác than quá nhỏ không được đưa vào “bản đồ” than của thế giới, riêng Đan Mạch năm 2015 chỉ tiêu thụ 1,8 triệu TOE than, còn Myanmar không được nêu tên.
3.Giải thích không đúng quy định của Luật và mức thuế tài nguyên hiện hành. Cụ thể là Bộ Tài chính cho rằng “Thuế tài nguyên với than đá có mức tối đa là 20%, nhưng hiện chỉ thu từ 10% – 12% (tùy loại) – thấp hơn khung tối đa”.
Theo quy định của Luật Thuế tài nguyên năm 2009 – thuế suất đối với than antraxit hầm lò mức thấp nhất là 4% và mức cao nhất là 20%; đối với than antraxit lộ thiên mức thấp nhất là 4% và mức cao nhất là 20%; mức thuế suất hiện hành là 10% đối với hầm lò và 12% đối với lộ thiên. Nếu cộng cả nộp tiền cấp quyền khai thác (2%) xét về bản chất cũng là thuế tài nguyên thì tương ứng là 12% và 14%.
Thực chất, việc quy định khung thuế suất thuế tài nguyên đối với khoáng sản nói chung và đối với than nói riêng trong Luật Thuế tài nguyên có phạm vi rộng không phải là để điều chỉnh tăng “thoải mái” thuế suất từ thấp đến cao theo thời gian như lâu nay. Bởi điều đó trái với đặc điểm của tài nguyên khoáng sản và quá trình khai thác chúng là có mức độ thuận lợi, khó khăn khác nhau và ngày càng khó khăn, phức tạp hơn – mà chính là để áp dụng mức thuế suất phù hợp cho các mỏ khoáng sản có mức độ khó khăn, thuận lợi khác nhau rất lớn nên hiệu quả cũng chênh lệch nhau rất lớn, dẫn đến tô mỏ (căn cứ để xác định thuế suất thuế tài nguyên) cũng chênh lệch rất lớn. Tức là có mỏ chịu mức thuế tối thiểu, nhưng có mỏ có thể chịu mức thuế tối đa.
Ví dụ: cùng là khai thác lộ thiên, nhưng hệ số bóc đất đá trên 1 tấn than nguyên khai có mỏ chỉ 1 m3 nhưng có mỏ lên tới 15 m3, thậm chí đến 20 m3 với cung độ vận tải gần xa khác nhau. Hoặc cùng là khai thác hầm lò, nhưng có mỏ khai thác lò bằng (tức trên mức nước tự chảy), nhưng có mỏ xuống sâu đến -100m; đến -200m; đến -300m và đến -400m so với mực nước biển với mức độ nguy cơ cháy nổ, bục nước, bục khí, phay phá, điều kiện địa chất mỏ khác nhau. Hoặc cùng là than antraxit do tạo hóa sinh ra nhưng chất lượng, chủng loại rất khác nhau, dẫn đến giá cả khác nhau.
Ví dụ: ở Quảng Ninh theo bảng giá than tính thuế tài nguyên hiện hành có tới 78 loại sản phẩm than atraxit với mức giá thấp nhất là 117 ngàn đồng/tấn và cao nhất là 4.053 ngàn đồng/tấn (chênh nhau tới 34,64 lần).
Trên thực tế, nếu không có sự điều tiết trong nội bộ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc (là 2 đơn vị chủ lực khai thác than hiện nay) thì nhiều mỏ, hoặc khu vực mỏ trong hai đơn vị này bị lỗ rất lớn và phải đóng cửa.
Thực chất, việc quy định thuế suất thuế tài nguyên than hiện hành là quy định mức bình quân cho tất cả các mỏ từ khó khăn nhất đến mỏ thuận lợi nhất, tức là bình quân của từ mức 4% đến 20% đối với khai thác hầm lò và từ mức 6% đến 20% đối với khai thác lộ thiên.
Giả sử rằng, số mỏ tương ứng với các mức từ 4%, hoặc 6% đến 20% là bằng nhau thì bình quân chung đối với hầm lò là 12% và đối với lộ thiên là 13%. Như vậy, nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác thì mức thuế tài nguyên hiện nay đã kịch trần đối với khai thác hầm lò (12%) và vượt trần đối với khai thác lộ thiên (14%). Do đó, không thể nói mức thuế tài nguyên hiện hành “thấp hơn khung tối đa”.
4.Có sự ngụy biện khi nói rằng: “Việc sửa đổi, bổ sung các chính sách thu đối với tài nguyên thời gian qua nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ, giai đoạn về bảo vệ, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả” và “việc quy định chính sách thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường với than trong thời gian qua là phù hợp”.
Việc thuế, phí tăng cao hiện nay làm cho giá thành khoáng sản, than tăng cao, sẽ gây tổn thất khoáng sản lớn trong quá trình khai thác. Vì với mục tiêu đảm bảo có lợi nhuận chấp nhận được, doanh nghiệp sẽ chỉ khai thác phần trữ lượng dễ khai thác và chất lượng tốt (để có giá thành thấp và giá bán cao), bỏ lại phần trữ lượng khó khai thác và chất lượng thấp (có giá thành cao và giá bán thấp). Điều đó hoàn toàn đi ngược lại với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước: “khai thác khoáng sản phải đảm bảo thu hồi tối đa khoáng sản” vì “Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, thuộc tài sản quan trọng của quốc gia phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế – xã hội trước mắt, lâu dài và bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường”.
Mục đích duy nhất của việc tăng thuế tài nguyên khoáng sản thời gian qua là để tận thu tài chính nhằm tăng thu ngân sách. Nhưng thực tế xét trên tổng thể và trong dài hạn thì mục đích đó không những không đạt được mà còn bị ngược lại, vì (1) sản lượng khoáng sản sẽ giảm đi do bỏ lại phần trữ lượng khó khăn nên vừa không thu được thuế tài nguyên, vừa không thu được thuế do phần trữ lượng lẽ ra lấy thêm được tạo ra trong các ngành sử dụng khoáng sản; (2) do thuế thu nhập doanh nghiệp của các ngành sử dụng khoáng sản giảm đi vì giá khoáng sản tăng do thuế tài nguyên tăng.
Rõ ràng, việc tăng thuế tài nguyên khoáng sản không hợp lý đã làm “mất cả chì lẫn chài”.
Vì vậy, theo ý kiến tôi, Bộ Tài chính cần nghiêm túc xem xét, nghiên cứu kiến nghị của cử tri Quảng Ninh và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để có báo cáo hết sức nghiêm túc đề xuất Chính phủ xem xét “để trình Quốc hội xem xét việc điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên cho phù hợp với tình hình thực tế” nhằm đảm bảo tuân thủ đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước: “khai thác khoáng sản phải đảm bảo thu hồi tối đa khoáng sản” vì “Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, thuộc tài sản quan trọng của quốc gia”.
P.V: Xin cảm ơn Phó Giáo sư!
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/thue-tai-nguyen-bat-cap-thieu-hop-ly-201708031444592179.htm” button=”Theo vinacomin”]