TKV vừa có văn bản gửi các cơ quan quản lý nhà nước kiến nghị về việc thuế phí tài nguyên tăng quá cao. Theo đó, từ 1/7/2016, thuế tài nguyên với than tiếp tục tăng, trong đó với than lộ thiên sẽ tăng tiếp lên 12%, khiến toàn Tập đoàn phải tăng chi phí nộp thuế 1.200 tỷ đồng/năm. Ngoài ra, tới đây Chính phủ sẽ còn ra nghị định hướng dẫn cách tính phí môi trường mới, theo đó sẽ tính cả lượng đất đá thải ra khiến Tập đoàn sẽ phải nộp thêm khoảng 70 tỷ đồng/năm cho loại hình dất đá thải này. Với mứ
Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam giới thiệu bài viết của PGS.TS Nguyễn Cảnh Nam (Hội Khoa học Công nghệ mỏ Việt Nam) và Ths Đồng Thị Bích (Trường Đại học mỏ Địa chất) xung quanh vấn đề này.
Chính sách thuế, phí hiện hành đối với khai thác khoáng sản:
a – Chính sách thuế, phí đối với khoáng sản ngày càng tăng cao xét trên cả 2 phương diện: số loại thuế, phí và mức từng loại thuế, phí. Ví dụ đối với than, ngoài thuế tài nguyên như trước đây thì nay có thêm thuế bảo vệ môi trường (đối với than antraxit hiện áp dụng mức 20 ngàn đồng/tấn), tiền cấp quyền khai thác (đối với than của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) bình quân năm 2014 là 26,25 ngàn đồng/tấn), phí sử dụng tài liệu thăm dò; hoặc thuế tài nguyên đã tăng từ mức 1% đối với than hầm lò và 2% đối với than lộ thiên trước đây lên tương ứng là 7% và 9% hiện nay (tổng cộng thuế tài nguyên đối với than của TKV đã tăng từ 230 tỉ đồng năm 2007 lên 2.758,3 tỉ đồng năm 2012, tăng 12 lần và 3.127,5 tỉ đồng năm 2013, tăng 13,6 lần; trong đó năm 2013 là 84,42 ngàn đồng/tấn lên 108,33 ngàn đồng/tấn năm 2014. Hoặc phí bảo vệ môi trường đối với than đã tăng từ 6 ngàn đồng/tấn than nguyên khai lên 10 ngàn đồng/tấn than nguyên khai…
Thông tin của Bộ TN&MT cho thấy, theo thống kê số liệu các nước trong khu vực Ðông Nam Á và một số nước có nền công nghiệp khoáng sản tương tự, Việt Nam là nước có khung thuế suất thuế tài nguyên cao trên thế giới, nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác là quá cao, trong khi Trung Quốc là nước khai thác khoáng sản hàng đầu thế giới có mức thuế suất chỉ từ 5-10%; một số nước phát triển đã quy định thuế suất giảm dần từ khoáng sản thô chưa chế biến đến khoáng sản chế biến sâu ra kim loại như Bang Tây Úc quy định thuế tài nguyên đối với quặng 7,5%, tinh quặng 5%, kim loại 2,5%.
b – Thuế tài nguyên hiện đang tính theo sản lượng khoáng sản khai thác được; điều đó cũng sẽ dễ gây ra tình trạng “dễ làm, khó bỏ” làm tổn thất tài nguyên, vì khu vực khai thác khó khăn có giá thành cao lại phải nộp thuế tài nguyên ngày càng cao làm cho doanh nghiệp bị lỗ nên họ sẽ bỏ lại, không khai thác. Tại Điều 7 quy định khung thuế suất thuế tài nguyên của tất cả các loại khoáng sản rắn cho thấy mức thấp nhất là 3% và cao nhất là 30%. Như vậy, tất cả các loại khoáng sản rắn, bất kể khó khăn, thuận lợi, xấu, tốt thế nào đều phải nộp thuế tài nguyên.
c – Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản: Quy định về Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của Luật Khoáng sản trùng lặp với thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản theo quy định của Luật Thuế tài nguyên. Như vậy, trên thực tế đã tăng thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản, làm cho thuế tài nguyên đã cao lại càng cao thêm. Để tránh sự trùng lặp với thuế tài nguyên và tránh sự tác động xấu của khoản thu này đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản, trong thực tế nhiều địa phương tìm mọi cách để lách nên dẫn đến những bất cập trong việc thực hiện quy định này của Luật Khoáng sản.
d – Phí BVMT trong khai thác khoáng sản được thực hiện từ năm 2006 theo Nghị định số 137/2005/NĐ-CP, sau đó có bổ sung, sửa đổi theo Nghị định 63/2008/NĐCP và đến năm 2011 được thay thế bằng Nghị định 74/2011/NĐ – CP có hiệu lực từ 1/1/2012.
Mặc dù, tại Điều 5 Nghị định 74/2011 quy định mục đích sử dụng của phí BVMT trong khai thác khoáng sản là để: a) Phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đối với môi trường tại địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản; b) Khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra; c) Giữ gìn vệ sinh, bảo vệ và tái tạo cảnh quan môi trường tại địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản.
Nhưng trên thực tế mức phí BVMT trong khai thác khoáng sản không hề tính đến yếu tố gây ô nhiễm, nguồn gây ô nhiễm và mức độ tác động, gây ô nhiễm môi trường của khai thác khoáng sản ở từng mỏ khác nhau. Ví dụ 1 tấn than khai thác lộ thiên bất kể bóc đất nhiều hay ít, tác động đến cảnh quan, sinh thái ra sao v.v. đều có mức phí BVMT theo quy định hiện hành là 10 ngàn đồng/tấn; 1 tấn than khai thác hầm lò ít tác động đến bề mặt hơn vẫn có mức phí là 10 ngàn đồng/tấn như 1 tấn than khai thác lộ thiên. Hoặc việc khai thác quặng bauxite chả khác gì khai thác đất sét làm gạch ngói, thạch cao, cao lanh, v.v. nhưng mức phí BVMT 1 tấn quặng bauxite là từ 30 đến 50 ngàn đồng/tấn, trong khi mức phí BVMT 1 m3 đất các loại nêu trên chỉ từ 1 đến 7 ngàn đồng/m3 v.v.
Như vậy, chính sách thuế, phí hiện hành đối với khai thác khoáng sản, trong đó có thuế tài nguyên đang theo hướng tận thu tài chính cho ngân sách nhà nước thay vì tận thu tối đa tài nguyên khoáng sản để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Dự kiến mức thuế suất thuế tài nguyên mới:
Theo dự thảo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên mới thì mức thuế suất thuế tài nguyên đối với các loại khoáng sản (chỉ trừ khoáng sản bauxite, nikel) đều tăng từ 2% trở lên.
Như vậy, thuế tài nguyên không những không giảm mà còn tăng lên làm cho thuế tài nguyên vốn dĩ đã cao nhất thế giới lại cao thêm, đi ngược lại với tinh thần của chính sách coi tài nguyên khoáng sản là nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, cần phải khai thác tận thu tối đa và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đồng thời chất thêm gánh nặng cho doanh nghiệp trong bối cảnh giá cả các loại khoáng sản đang trong trình trạng suy giảm. Điều đó chắc chắn sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy xấu đối với tài nguyên khoáng sản, ngành công nghiệp khai khoáng, môi trường và các ngành sản xuất cũng như nền kinh tế quốc dân trước mắt và lâu dài.
Một số kiến nghị:
– Mức thuế tài nguyên đối với khoáng sản đã quá cao so với thế giới, hơn nữa với việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, trên thực tế đã tăng thuế tài nguyên. Do vậy, kiến nghị không tiếp tục tăng thuế tài nguyên nói chung đối với khai thác khoáng sản.
– Với vai trò là “bánh mì của công nghiệp”, trong bối cảnh vùng than Quảng Ninh bị thiệt hại nặng do mưa lũ vừa qua và giá thành khai thác than tăng cao, để khỏi ảnh hưởng đến giá thành của các ngành sử dụng than, nhất là sản xuất điện, phân bón, giấy, xi măng, cũng như việc tăng sản lượng than đáp ứng nhu cầu, kiến nghị xem xét giảm mức thuế tài nguyên hiện hành đối với than xuống như sau: than khai thác hầm lò là 5% và khai thác lộ thiên là 7%.
– Ngoài ra, trong bối cảnh suy giảm giá bán hiện nay và để nâng cao sức cạnh tranh so với hàng hóa nhập khẩu, kiến nghị xem xét giảm thuế suất thuế tài nguyên một cách phù hợp đối với các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng, quặng sắt, bauxite và các loại khoáng sản khác khai thác, chế biến tại các khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.
– Thay đổi căn cứ tính thuế tài nguyên theo sản lượng khai thác sang theo trữ lượng có thể khai thác được theo thiết kế được duyệt (tương tự như quy định căn cứ thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản) và có chính sách khuyến khích khai thác tận thu thêm trữ lượng nhằm khai thác tận thu tối đa tài nguyên. Kèm theo đó có các giải pháp kiểm soát, quản lý chặt chẽ trữ lượng, sản lượng và tỉ lệ tổn thất thực tế trong quá trình khai thác khoáng sản.
– Đổi mới chính sách thuế, phí nói chung, trong đó có thuế tài nguyên nói riêng đối với khai thác khoáng sản theo hướng thay vì tận thu tài chính cho tăng thu ngân sách chuyển sang khuyến khích tận thu tối đa tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường theo tinh thần “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô” (tương tự như chính sách miễn thị thực vừa qua).
– Đến nay Luật Khoáng sản đã ban hành được 6 năm và có hiệu lực thi hành 5 năm, do vậy nên xem xét bổ sung, sửa đổi một số quy định bất hợp lý của Luật Khoáng sản, trong đó bỏ quy định về thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vì nó trùng lặp với thuế tài nguyên.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/thue-phi-khoang-san-hien-dang-qua-cao-201608031132109479.htm” button=”Theo vinacomin”]