Là nữ trưởng ban duy nhất trong 23 ban chuyên môn của Tập đoàn, bà Đặng Thị Tuyết – Trưởng Ban Pháp chế – chia sẻ, đây thực sự là vinh dự và cũng là thách thức không nhỏ. Điều này cũng dễ hiểu bởi công tác pháp chế ngày càng được chú trọng và củng cố, trở thành một công cụ đắc lực giúp Tập đoàn hạn chế và phòng ngừa rủi ro pháp lý trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Cùng với toàn xã hội “thượng tôn pháp luật”, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, lãnh đạo doanh nghiệp (DN) ngày càng nhận thức rõ vai trò quan trọng của thực thi pháp luật và công tác pháp chế DN. TKV cũng không phải là ngoại lệ. Bà có thể chia sẻ để độc giả hiểu thêm về chức năng, nhiệm vụ của Ban?
Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động công tác pháp chế doanh nghiệp đang được điều chỉnh theo Nghị định 55/2011NĐ-CP, và Tập đoàn đã cụ thể hoá bằng Quy chế tổ chức hoạt động công tác pháp chế trong toàn Tập đoàn được ban hành kèm theo Quyết định số 125/QĐ-VINACOMIN. Theo đó, Pháp chế doanh nghiệp nói chung và pháp chế trong Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam nói riêng có nhiệm vụ Công tác pháp chế doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành; tham gia thẩm định, đàm phán các hợp đồng quan trọng của công ty Mẹ hoặc của các công ty con (theo đề nghị); thẩm định các dự án theo phân cấp đầu tư của Tập đoàn; tham gia soạn thảo hoặc thẩm định các quy chế của Công ty Mẹ hoặc các công ty con (theo đề nghị); đề xuất các giải pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh; cung cấp thông tin hướng dẫn nghiệp vụ pháp chế doanh nghiệp, hướng dẫn nghiệp vụ quản trị rủi ro trong kinh doanh cho các ban, các công ty con; các nhiệm vụ khác được lãnh đạo phân công.
Theo tôi được biết, công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh nói chung và pháp chế doanh nghiệp (quản trị rủi ro pháp lý) được áp dụng khá mới mẻ trong quản trị doanh nghiệp. Vậy Ban Pháp chế đã phải nỗ lực như thế nào để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình?
Bạn nói rất đúng, đối với những doanh nghiệp có mô hình quản trị hiện đại thì việc áp dụng công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh và pháp chế doanh nghiệp trong quá trình quản trị doanh nghiệp đã trở thành điều không thể thiếu và đã được áp dụng từ rất lâu. Tuy nhiên điều này với các doanh nghiệp của Việt Nam là điều khá mới mẻ.
Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với nền kinh tế thị trường và hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế quốc tế…chính vì vậy, việc doanh nghiệp hiểu luật, hoạt động sản xuất – kinh doanh theo đúng luật, phù hợp với thông lệ quốc tế là việc vô cùng cần thiết. Với Tập đoàn kinh tế lớn như TKV thì điều này càng cấp thiết và quan trọng.
Tuy nhiên, công việc pháp chế và quản trị rủi ro là công việc mang tính chất là “tầm nhìn xa”, nên không phải đơn vị nào cũng ngay lập tức nhận ra tầm quan trọng của nó. Thực tế, đây đó vẫn còn những doanh nghiệp “ngại” thành lập tổ chức pháp chế, chỉ khi xảy ra tranh chấp mới nghĩ đến chuyện… đi thuê dịch vụ tư vấn pháp lý để xử lý những việc “đã rồi”. Như vậy, vừa tốn kém mà hiệu quả lại không cao.
Theo tôi, quan trọng nhất là chính người lãnh đạo phải nhận thức sâu sắc sự cần thiết, quan trọng, có ý nghĩa của công tác pháp chế từ đó có chương trình đào tạo bồi dưỡng, tổ chức hợp lý.
Đồng hành cùng Tập đoàn khẳng định thương hiệu TKV
TKV đã và đang khẳng định thương hiệu. Vậy Ban Pháp chế đóng vai trò thế nào trong việc đồng hành cùng Tập đoàn khẳng định thương hiệu TKV, thưa bà?
TKV là thương hiệu đã được Tập đoàn sử dụng từ khi bắt đầu thành lập Tập đoàn, sau khi TVN có thời gian khá dài gắn bó với sự trưởng thành của ngành Than, khi sáp nhập lĩnh vực khoáng sản thành Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam, thương hiệu TKV ra đời (năm 2005) và ngay lập tức đã có uy tín trên thị trường Việt Nam và quốc tế. Trên thực tế, thương hiệu TKV đã có lúc bị một số cá nhân, tổ chức sử dụng trái pháp luật. Với vai trò là ban chuyên môn về công tác pháp chế, từ năm 2009 Ban Pháp chế TKV đã tiến hành đăng ký bảo hộ thương hiệu TKV tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam để củng cố giá trị thương hiệu TKV bằng các công cụ pháp luật. Đồng thời, Ban Pháp chế TKV đã tư vấn cho lãnh đạo Tập đoàn thực hiện một số biện pháp theo quy định của pháp luật về Sở hữu trí tuệ để bảo vệ thương hiệu TKV trước các hành vi sử dụng trái pháp luật của một số cá nhân, tổ chức đó.
Cũng liên quan đến vấn đề thương hiệu, hiện nay, trong Tập đoàn một số đơn vị để thương hiệu Vinacomin, một số khác lại là TKV. Vậy đâu mới là thương hiệu “chuẩn”, có tầm ảnh hưởng để sau này các đơn vị thành viên có thể dùng chung một thương hiệu?
Như các bạn đã biết, từ năm 2005 thương hiệu TKV được hình thành tồn tại cùng với sự phát triển của Tập đoàn, trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010 Tập đoàn vẫn cùng lúc sử dụng tên viết tắt tiếng Việt là TKV và tên viết tắt tiếng Anh là VINACOMIN, mặc dù vậy TKV được biết đến không chỉ đối với đối tác trong nước mà cả với các đối tác nước ngoài. Kể từ khi chuyển đổi mô hình hoạt động công ty mẹ Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên theo Luật Doanh nghiệp (tháng 7/2010) thì tên viết tắt là TKV không được đề cập trong Điều lệ của Tập đoàn nữa, mặc dù vậy TKV vẫn là nhãn hiệu thuộc sở hữu hợp pháp của Tập đoàn. Cũng trong giai đoạn này Tập đoàn đã tiến hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu VINACOMIN cả trong nước và 22 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Theo Nghị định số 212/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19/12/2013 về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam quay lại sử dụng tên viết tắt tiếng Việt của Tập đoàn là “TKV”, tên viết tắt tiếng Anh của Tập đoàn là “VINACOMIN”, như vậy, cả hai thương hiệu “TKV” và “VINACOMIN” đều là thương hiệu thuộc sở hữu hợp pháp của Tập đoàn được pháp luật bảo hộ. Trong dự thảo Quy chế sử dụng nhãn hiệu Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn cũng cho phép các đơn vị (được phép ký Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu với Tập đoàn) tự lựa chọn sử dụng thương hiệu “TKV”, “VINACOMIN” hoặc sử dụng cả hai thương hiệu phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Trên thực tế, cả hai thương hiệu này đều đã khẳng định vị thế của Tập đoàn nói chung và các đơn vị nói riêng trên thị trường Việt Nam và quốc tế.
Tăng cường đẩy mạnh và phát triển về chiều sâu
Với 6 thành viên trong Ban và hơn 100 cán bộ làm công tác pháp chế tại các DN thành viên? Theo bà đội ngũ này là dày hay mỏng? Nói một cách khác có đủ để đảm đương công việc không?
Với mô hình quản lý, địa bàn hoạt động của Tập đoàn hiện nay và thực tế công việc đang thực hiện, tôi thấy rằng cần phải tăng cường hơn nữa cả về lượng và chất đối với cán bộ pháp chế của TKV nhằm thực hiện tốt vai trò pháp chế doanh nghiệp.
Đối với lực lượng cán bộ làm công tác pháp chế tại các đơn vị thành viên hiện nay còn nhiều vấn đề phải bàn. Trên thực tế, cũng có đơn vị đã thực sự quan tâm đúng mức đến hoạt động pháp chế doanh nghiệp, bố trí cán bộ làm chuyên trách, theo đó bộ phận này đã có thể phát huy được vai trò của pháp chế doanh nghiệp – số này ít. Bên cạnh đó còn nhiều đơn vị bố trí cán bộ pháp chế theo hình thức kiêm nhiệm dẫn đến chất lượng thực hiện chức năng nhiệm vụ pháp chế doanh nghiệp ở những đơn vị này là còn nhiều hạn chế, đối với lực lượng kiêm nhiệm này có thể đánh giá là chưa đáp ứng được yêu cầu.
Do số lượng còn mỏng và đặc thù của pháp chế doanh nghiệp không chuyên nghiệp như luật sư, do vậy việc hợp tác, phối hợp, sử dụng dịch vụ của các công ty luật chuyên ngành khi phát sinh những vụ việc cần tư vấn chuyên sâu để hỗ trợ, tôi cho rằng đây là cách làm hay và hiệu quả vừa tiết kiệm chi phí, Ban PC là đầu mối làm việc với các công ty Luật, qua đó là điều kiện để cho cán bộ của Ban học hỏi và trau dồi kinh nghiệm. Ngoài ra, việc tham gia là thành viên của Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp – Bộ Tư pháp, tham gia sinh hoạt nghiệp vụ cùng pháp chế các tập đoàn khác để qua đó trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau trong công tác pháp chế doanh nghiệp.
Là “bóng hồng” duy nhất làm trưởng một ban có lĩnh vực chuyên môn liên quan đến tất cả các chuyên môn của các ban khác trong Tập đoàn đồng thời lại là lĩnh vực khá “nhạy cảm” vì liên quan đến pháp luật, vậy bà có gặp khó khăn gì?
Do tính chất đặc thù của pháp chế doanh nghiệp, công việc mà Ban Pháp chế thực hiện là những công việc không đi theo lối mòn, phải đọc, nghiên cứu, mới đưa ra ý kiến để tư vấn phù hợp với thị trường, các quy định pháp luật, thông lệ quốc tế, có những dự báo nhất định. Vì phải đọc, nghiên cứu nhiều, nên nhịp điệu công việc không quá ồn ào, đôi khi khô khan. Tuy nhiên, công việc này lại khá hợp với người trầm tính như tôi. Chính vì vậy, tôi luôn tìm thấy niềm vui trong công việc và rất tâm huyết với những gì mình đang làm và như vậy thì dù bạn là ai, phụ nữ hay đàn ông, điều đấy không còn quan trọng, nếu bạn cảm thấy thật sự yêu mến công việc mình đang làm và thấy công việc đó phù hợp với mình.
Dự định gì cho công việc của Ban trong thời gian sắp tới, thưa bà?
Dự định thì nhiều nhưng có lẽ, tựu trung lại là mong muốn hệ thống pháp chế trong Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam ngày càng được quan tâm đúng mức và phát huy được vai trò, là người canh cổng pháp lý cho doanh nghiệp, theo đó:
Về công tác pháp chế: Tăng cường đẩy mạnh và phát triển về chiều sâu trong công tác pháp chế tại các đơn vị, trong đó chú trọng công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ làm công tác pháp chế doanh nghiệp trong toàn Tập đoàn. Trong năm 2014 và 2015 chúng tôi sẽ tăng cường công tác kiểm tra pháp chế trong các đơn vị thành viên của TKV từ đó có những định hướng, kế hoạch hoạt động pháp chế doanh nghiệp trong các năm tiếp theo.
Về công tác quản trị rủi ro: Tìm tòi và phát triển các hướng đi mới cho công tác quản trị rủi ro trong kinh doanh. Ban PC đang làm đầu mối xây dựng quy trình quản trị rủi ro trong kinh doanh, để trình HĐTV thông qua nhằm áp dụng trong toàn Tập đoàn. Tiến tới xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản trị rủi ro tại các đơn vị trong Tập đoàn.
Xin cảm ơn bà!
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/phap-che-doanh-nghiep-chia-se-cua-nguoi-trong-cuoc-8089.htm” button=”Theo vinacomin”]