Tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) tới ngành Than
Theo kịch bản quốc gia về biến đổi khí hậu năm 2012, đến năm 2050 mực nước biển cao thêm từ 20 – 24 cm tại khu vực Móng Cái – Hòn Dáu, nhiệt độ môi trường tăng 2 – 30 C, tổng lượng mưa trung bình năm tăng 5% nhưng lượng mưa lại giảm về mùa khô. Kết quả điều tra, khảo sát của TKV cho thấy các mỏ than vùng Quảng Ninh ít có khả năng bị ngập do nước biển dâng vì các mỏ đều có cốt cao hơn mặt nước biển hàng mét trở lên, tuy nhiên các mỏ lộ thiên phải đề phòng ngập moong khai thác do mưa to, lượng mưa lớn. Đến năm 2050, hầu hết các mỏ lộ thiên ở vùng than Quảng Ninh đã đi vào kết thúc và đóng cửa mỏ, các mỏ hầm lò đến giai đoạn này đều là các mỏ khai thác ở mức sâu dưới 300m, được thiết kế mới hoặc cải tạo, mở rộng với kỹ thuật tiên tiến nên khả năng tránh nước mặt tràn vào mỏ không có gì khó khăn. Tại tất cả các cảng than, định hướng của Tập đoàn là đến năm 2020 sẽ chấm dứt các kho than hàng hóa lộ thiên trên bề mặt cảng mà toàn bộ than được chứa trong silo và vận chuyển từ mỏ ra bằng băng tải, do vậy không có nguy cơ đe dọa ngập các kho than trên bến bãi do nước biển dâng hoặc mưa to dài ngày.
Tuy nhiên, mực nước biển dâng cao từ 20-24 cm sẽ ảnh hưởng đến các cảng rót than trong những ngày có bão, sóng lớn, nhất là khu vực chuyển tải than Hòn Nét. Cảng Cửa Ông phải có phương án an toàn cho các công trình trên bề mặt cảng để phòng chống sóng lớn. Vì nước biển dâng, ăn sâu vào đất liền nên phương thức vận chuyển than ra cảng cần được thay thế hoàn toàn bằng băng tải.
Thực tế thời gian qua đã có không ít điểm mỏ quan trọng bị thiên nhiên tàn phá, vùi lấp. BĐKH làm mưa lũ gia tăng vào mùa mưa với diễn biến thất thường gây khó khăn lớn cho hoạt động sản xuất khai thác, quá trình vận chuyển tại các mỏ khai thác khoáng sản làm thiệt hại lớn về người và của đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt, ngành Than chịu ảnh hưởng lớn từ đợt mưa lớn lịch sử trong vòng 40 năm qua tại tỉnh Quảng Ninh cuối tháng 7 đến đầu tháng 8 năm 2015 như chúng ta đã biết.
Công tác ứng phó BĐKH của ngành Than
Nhận thức rõ tác động của BĐKH tới hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến, ngành Than đã chủ động công tác ứng phó BĐKH. Nhiều chương trình, hoạt động liên quan trực tiếp và gián tiếp tới công tác ứng phó BĐKH đã được triển khai rộng khắp trong những năm qua.
Thực hiện Quyết định 158/2008/QĐ-TTg ngày 2/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời căn cứ vào kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của Bộ Công Thương tại Quyết định 4103/QĐ-BCT ngày 03/8/2010, trong thời gian qua, TKV đã xây dựng chương trình, kế hoạch hành động nhằm ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu. Hoạt động ứng phó với BĐKH của ngành Than tập trung vào hai hướng là thích ứng và giảm nhẹ. Các mỏ than hầm lò, lộ thiên và khu vực chế biến đã áp dụng các giải pháp thích ứng với tác động của BĐKH như tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về BĐKH và công tác ứng phó cho các cán bộ, công nhân và người lao động trong toàn Ngành từ năm 2010 tới nay; quy hoạch các khu vực khai thác, chế biến mới lùi vào đất liền, bỏ các cảng than nhỏ lẻ, tập trung vào các cảng lớn, hiện đại; trồng cây xanh tại các mỏ để hoàn thổ sau khai thác, giảm sức tàn phá của mưa lũ, đẩy mạnh trồng rừng lấy gỗ làm trụ mỏ và góp phần tăng độ che phủ rừng tại tỉnh Quảng Ninh… Bên cạnh đó, ngành Than cũng tập trung vào các giải pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK). Thông qua hoạt động tiết kiệm điện-nhiên liệu, giảm phát thải, tính riêng khối khai thác lộ thiên đã tiêu thụ lên 160 triệu kWh/năm. Theo tính toán, mỗi năm, các đơn vị sản xuất than lộ thiên có thể tiết kiệm 11 triệu kWh điện, tương đương hơn 11 tỷ đồng/năm và tiết kiệm tiền xăng, dầu phục vụ các loại xe cơ giới tương đương khoảng 22,5 tỷ đồng. Do đó, tổng chi phí tiết kiệm được vào khoảng 32,5 tỷ đồng/năm và góp phần giảm phát thải 6.174,7 tấn khí CO2/năm ra môi trường. Khối sản xuất hầm lò hiện đang tiêu thụ gần 300 triệu kWh/năm. Nếu áp dụng các giải pháp tương tự, mỗi năm có thể tiết kiệm khoảng 28,5 triệu kWh điện, tương đương 25,7 tỷ đồng, góp phần giảm phát thải 16.000 tấn khí CO2/năm. Trong tương lai xa hơn, TKV có định hướng sử dụng các mặt bằng bãi thải mỏ đã cải tạo tại vùng Quảng Ninh làm các địa điểm sản xuất điện mặt trời hoặc phong điện.
Bên cạnh các hoạt động liên quan trực tiếp tới công tác ứng phó BĐKH của toàn Ngành, trong giai đoạn 2011 – 2015, TKV đã triển khai một số chương trình hỗ trợ công tác ứng phó BĐKH, giảm nhẹ phát thải KNK. Các chương trình này nằm trong 10 chương trình KHCN trọng điểm được ưu tiên thực hiện của Tập đoàn, bao gồm: Chương trình khai thác và sử dụng tổng hợp tài nguyên than-khoáng sản; phát triển năng lượng thay thế và vật liệu mới; tiết kiệm năng lượng và phát triển công nghệ thông tin; Phát triển mô hình sản xuất sạch hơn, an toàn hơn; Giảm thiểu và phòng chống ảnh hưởng bất lợi của điều kiện tự nhiên vào quá trình khai thác mỏ, đảm bảo sản xuất an toàn; nâng cao năng lực quản lý và tăng cường tiềm năng khoa học công nghệ.Kết quả của các chương trình đã giúp ngành Than xác định được các giải pháp ứng phó BĐKH, sử dụng hợp lý tài nguyên, đồng thời từng bước xây dựng năng lực sản xuất theo hướng thân thiện môi trường, sản xuất sạch hơn. Theo đó, các nghiên cứu về công nghệ thu hồi và sử dụng khí mê tan trong khai thác hầm lò, nghiên cứu sử dụng đá xít từ quá trình sàng tuyển than ở các mỏ và nhà máy tuyển để sản xuất điện; nghiên cứu công nghệ khí hóa than để sản xuất methanol và dầu DME… đã được triển khai; các hoạt động kiểm toán năng lượng, tư vấn các giải pháp quản lý năng lượng, nâng cao trình độ tự động hóa sản xuất cũng được thực hiện thường xuyên tại các doanh nghiệp. Trong chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2012-2015, để hỗ trợ ngành Than xác định được các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính (KNK) trong khai thác và chế biến than, Bộ Công Thương đã giao Viện KHCN Mỏ – Vinacomin thực hiện nhiệm vụ “Xây dựng các biện pháp kiểm soát phát thải khí nhà kính trong ngành công nghiệp khai thác và chế biến than phù hợp với điều kiện Việt Nam”.
Trong thời gian tới, ngành Than cần tiếp tục công tác tuyên truyền, phổ biến các yêu cầu mới về ứng phó biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, thúc đẩy các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã cam kết giảm phát thải khí nhà kính tại Thỏa thuận Paris tháng 4 năm 2016. Ngoài ra, đối với yêu cầu xây dựng Kế hoạch ứng phó biến đổi khí hậu và thực hiện hàng năm, TKV và Tổng Công ty Đông Bắc cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước để triển khai hiệu quả công tác này, góp phần chủ động ứng phó với các tác động tiêu cực do BĐKH gây ra, đảm bảo sản xuất, an toàn cho người lao động và người dân xung quanh các mỏ than.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/nganh-than-chu-dong-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau-201704011555481285.htm” button=”Theo vinacomin”]