Tôi không đồng tình với quan điểm của bác Lại Văn Ủng – một nhân vật trong vở kịch nổi tiếng “Lời thề thứ chín” của Lưu Quang Vũ. Mỗi khi ai đó nhắc tới khó khăn hiện tại, bác ta luôn “hoài cổ” rằng, cuộc sống như bây giờ là sướng rồi, còn kêu ca cái nỗi gì! Ngày xưa không có phích, bây giờ có phích; ngày xưa không có màn, bây giờ có màn. Ô hay, thưa bác Lại Văn Ủng, mọi cá nhân, tập thể và cả xã hội phải luôn vận động và phát triển, chứ bác; ai lại “an phận thủ thường”, tư duy theo kiểu “phú quý giật lùi” như bác!
Vậy mà giờ đây – khi mà hàng nghìn doanh nghiệp của nước ta lao đao, thậm chí phá sản bởi “sóng dữ” của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng Tập đoàn đã vượt qua; khi mà Tết đến Xuân về, tôi lại bâng khuâng “hoài cổ” về một thời chưa xa và liên tưởng đến thực tại, theo kiểu bác Ủng.
Quả thật, Tập đoàn chúng ta đã qua một năm hết sức khó khăn. Trong đó, khó khăn lớn nhất là tiêu thụ và thiếu vốn đầu tư cho sản xuất… Tuy vậy, bằng nhiều biện pháp, chúng ta đã vượt qua, tổng doanh thu đạt 97,7 ngàn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước là 11,5 ngàn tỷ đồng, vẫn lo đủ việc làm cho công nhân.
Với mức thu nhập ấy, chưa phải là cao; nhiều hộ gia đình công nhân còn khó khăn, nhưng tôi tin rằng, ngày Tết, không gia đình nào thiếu gạo tới mức chạy ăn từng bữa như những năm tháng ấy.
Những năm tháng hãi hùng ấy cách đây chưa lâu, đó là thời kỳ đầu của nền kinh thế thị trường. Trong Tạp chí Than Khoáng sản Việt Nam số kỷ niệm 50 năm thành lập tỉnh Quảng Ninh chúng tôi đã nêu: Thời gian này (năm 1987) công tác lưu thông phân phối gặp rất nhiều ách tắc do sản xuất phát triển chậm; tổng giá trị mua các nguồn đạt thấp, trong khi đó hàng Trung ương về chậm và thiếu, chỉ đạt 58% kế hoạch, mua hàng địa phương chỉ đạt 66% chỉ tiêu kế hoạch. Từ đó, vấn đề lương thực luôn trong tình trạng căng thẳng. Hết tháng 10-1987, Trung ương mới cấp cho Quảng Ninh 57.600 tấn gạo, chỉ đạt 50,4% kế hoạch năm.
Tình hình khan hiếm lương thực trong thời kỳ này diễn ra trên diện rộng và ảnh hưởng đến mọi cơ sở, mọi ngành và các tầng lớp xã hội. Theo số liệu điều tra thực tế của Liên hiệp Công đoàn tỉnh và phản ảnh của cơ sở thì đến cuối tháng 10-1987, ở Công ty Than Cẩm Phả (nay thuộc các công ty của Vinacomin trên địa bàn Cẩm Phả như Cọc Sáu, Cao Sơn, Đèo Nai, Thống Nhất v.v.) có tới 30% công nhân phải ăn cháo một bữa, còn 1 bữa dựa vào bữa ăn công nghiệp ở nơi làm việc. Xí nghiệp Tuyển than Cửa Ông có 54 gia đình công nhân phải ăn cháo 2 bữa; Xí nghiệp Vận tải Cẩm Phả (Xí nghiệp này sau này tổ chức lại) có 39 gia đình ăn cháo 2 bữa. Số đông các gia đình Nhà máy đóng tàu Hạ Long trước đây hết gạo ăn, một số phải bán đồ lấy tiền đong gạo. Ở Lâm trường Cẩm Phả, đội Dương Huy có 63/70 gia đình, đội Cộng Hoà có 48/60 gia đình phải ăn cháo và sắn thay cơm. Công ty Cầu cảng, Công ty Đường miền tây (thuộc Sở Giao thông) có 379 gia đình ăn cháo. Điều tra ở tổ 115 (phường Cẩm Phú, thị xã Cẩm Phả) có 18 hộ thì 16 hộ thiếu gạo phải ăn cháo kèm sắn; còn điều tra 106 hộ ở 6 phường thị xã Hòn Gai thì có 33 hộ khó khăn về gạo, phải chạy ăn từng bữa…
Hôm chuẩn bị nội dung cho Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam số Tết Giáp Ngọ, đến Công ty than Uông Bí, chúng tôi đọc lại Nghị quyết lần thứ Nhất của Đảng bộ Công ty thời kỳ này, thấy bùi ngùi. Thời đó, Công ty than Uông Bí bao gồm các mỏ lớn như Mạo Khê, Vàng Danh và một số mỏ nhỏ, tiền thân của Than Nam Mẫu, Hồng Thái bây giờ; các đơn vị xây lắp mỏ, vận tải, trường học nghề, bệnh viện… thuộc miền Tây tỉnh Quảng Ninh. Nghị quyết của Đảng bộ Công ty thời đó đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đưa thu nhập của thợ lò mỗi tháng mua được 100 kg gạo, 70 kg đối với thợ cơ điện vận tải và 50 kg đối với lao động sàng than”. Vâng. Ngày ấy nhà nhà lo gạo thì Nghị quyết của Đảng bộ không thể xa rời nguyện vọng bức thiết của mọi gia đình công nhân, đó là đủ gạo ăn. Đọc những dòng Nghị quyết này, tôi làm phép so sánh: Với mục tiêu quy bằng gạo thời kỳ đó, áp với giá gạo thị trường hiện nay (tháng 12/2013, giá gạo 17 000 đ/kg), thợ lò chỉ có 1,7 triệu đồng/tháng. Thế nhưng năm qua, vẫn theo tư duy của bác Lại Văn Ủng, với mức thu nhập bình quân toàn Tập đoàn xấp xỉ 8 triệu đồng, quy ra gạo (17 nghìn/kg), rõ ràng, mỗi CNCB toàn Ngành đạt trên 5 tạ gạo/tháng; thợ lò thì hơn, trong đó nhiều người mỗi tháng đi làm đủ công, tích cực, có thể đạt gần một tấn gạo…
Như trên đã nêu, với mức thu nhập như hiện nay, chưa phải là cao; với thợ hầm lò cần phải cải thiện nữa mới tương xứng công sức của họ. Nhưng trong điều kiện bối cảnh hiện tại, CNCB trong Tập đoàn đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, đời sống và việc làm của CNCB ổn định, hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, từ thiện. Nỗ lực ấy đáng tự hào lắm thay!
Vậy mà giờ đây – khi mà hàng nghìn doanh nghiệp của nước ta lao đao, thậm chí phá sản bởi “sóng dữ” của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng Tập đoàn đã vượt qua; khi mà Tết đến Xuân về, tôi lại bâng khuâng “hoài cổ” về một thời chưa xa và liên tưởng đến thực tại, theo kiểu bác Ủng.
Quả thật, Tập đoàn chúng ta đã qua một năm hết sức khó khăn. Trong đó, khó khăn lớn nhất là tiêu thụ và thiếu vốn đầu tư cho sản xuất… Tuy vậy, bằng nhiều biện pháp, chúng ta đã vượt qua, tổng doanh thu đạt 97,7 ngàn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước là 11,5 ngàn tỷ đồng, vẫn lo đủ việc làm cho công nhân.
Với mức thu nhập ấy, chưa phải là cao; nhiều hộ gia đình công nhân còn khó khăn, nhưng tôi tin rằng, ngày Tết, không gia đình nào thiếu gạo tới mức chạy ăn từng bữa như những năm tháng ấy.
Những năm tháng hãi hùng ấy cách đây chưa lâu, đó là thời kỳ đầu của nền kinh thế thị trường. Trong Tạp chí Than Khoáng sản Việt Nam số kỷ niệm 50 năm thành lập tỉnh Quảng Ninh chúng tôi đã nêu: Thời gian này (năm 1987) công tác lưu thông phân phối gặp rất nhiều ách tắc do sản xuất phát triển chậm; tổng giá trị mua các nguồn đạt thấp, trong khi đó hàng Trung ương về chậm và thiếu, chỉ đạt 58% kế hoạch, mua hàng địa phương chỉ đạt 66% chỉ tiêu kế hoạch. Từ đó, vấn đề lương thực luôn trong tình trạng căng thẳng. Hết tháng 10-1987, Trung ương mới cấp cho Quảng Ninh 57.600 tấn gạo, chỉ đạt 50,4% kế hoạch năm.
Tình hình khan hiếm lương thực trong thời kỳ này diễn ra trên diện rộng và ảnh hưởng đến mọi cơ sở, mọi ngành và các tầng lớp xã hội. Theo số liệu điều tra thực tế của Liên hiệp Công đoàn tỉnh và phản ảnh của cơ sở thì đến cuối tháng 10-1987, ở Công ty Than Cẩm Phả (nay thuộc các công ty của Vinacomin trên địa bàn Cẩm Phả như Cọc Sáu, Cao Sơn, Đèo Nai, Thống Nhất v.v.) có tới 30% công nhân phải ăn cháo một bữa, còn 1 bữa dựa vào bữa ăn công nghiệp ở nơi làm việc. Xí nghiệp Tuyển than Cửa Ông có 54 gia đình công nhân phải ăn cháo 2 bữa; Xí nghiệp Vận tải Cẩm Phả (Xí nghiệp này sau này tổ chức lại) có 39 gia đình ăn cháo 2 bữa. Số đông các gia đình Nhà máy đóng tàu Hạ Long trước đây hết gạo ăn, một số phải bán đồ lấy tiền đong gạo. Ở Lâm trường Cẩm Phả, đội Dương Huy có 63/70 gia đình, đội Cộng Hoà có 48/60 gia đình phải ăn cháo và sắn thay cơm. Công ty Cầu cảng, Công ty Đường miền tây (thuộc Sở Giao thông) có 379 gia đình ăn cháo. Điều tra ở tổ 115 (phường Cẩm Phú, thị xã Cẩm Phả) có 18 hộ thì 16 hộ thiếu gạo phải ăn cháo kèm sắn; còn điều tra 106 hộ ở 6 phường thị xã Hòn Gai thì có 33 hộ khó khăn về gạo, phải chạy ăn từng bữa…
Hôm chuẩn bị nội dung cho Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam số Tết Giáp Ngọ, đến Công ty than Uông Bí, chúng tôi đọc lại Nghị quyết lần thứ Nhất của Đảng bộ Công ty thời kỳ này, thấy bùi ngùi. Thời đó, Công ty than Uông Bí bao gồm các mỏ lớn như Mạo Khê, Vàng Danh và một số mỏ nhỏ, tiền thân của Than Nam Mẫu, Hồng Thái bây giờ; các đơn vị xây lắp mỏ, vận tải, trường học nghề, bệnh viện… thuộc miền Tây tỉnh Quảng Ninh. Nghị quyết của Đảng bộ Công ty thời đó đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đưa thu nhập của thợ lò mỗi tháng mua được 100 kg gạo, 70 kg đối với thợ cơ điện vận tải và 50 kg đối với lao động sàng than”. Vâng. Ngày ấy nhà nhà lo gạo thì Nghị quyết của Đảng bộ không thể xa rời nguyện vọng bức thiết của mọi gia đình công nhân, đó là đủ gạo ăn. Đọc những dòng Nghị quyết này, tôi làm phép so sánh: Với mục tiêu quy bằng gạo thời kỳ đó, áp với giá gạo thị trường hiện nay (tháng 12/2013, giá gạo 17 000 đ/kg), thợ lò chỉ có 1,7 triệu đồng/tháng. Thế nhưng năm qua, vẫn theo tư duy của bác Lại Văn Ủng, với mức thu nhập bình quân toàn Tập đoàn xấp xỉ 8 triệu đồng, quy ra gạo (17 nghìn/kg), rõ ràng, mỗi CNCB toàn Ngành đạt trên 5 tạ gạo/tháng; thợ lò thì hơn, trong đó nhiều người mỗi tháng đi làm đủ công, tích cực, có thể đạt gần một tấn gạo…
Như trên đã nêu, với mức thu nhập như hiện nay, chưa phải là cao; với thợ hầm lò cần phải cải thiện nữa mới tương xứng công sức của họ. Nhưng trong điều kiện bối cảnh hiện tại, CNCB trong Tập đoàn đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, đời sống và việc làm của CNCB ổn định, hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, từ thiện. Nỗ lực ấy đáng tự hào lắm thay!
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/neu-quy-ra-gao-7111.htm” button=”Theo vinacomin”]