Những ngày này cách đây 64 năm, Vùng mỏ rực rỡ cờ hoa, muôn người chung một niềm hân hoan, vỡ òa hạnh phúc! Đó là ngày bộ đội ta tiến về tiếp quản Vùng than, chấm dứt hơn 70 năm thực dân Pháp cai trị. Thời gian dẫu có đi qua, nhưng ký ức lịch sử về những ngày giải phóng vẫn vẹn nguyên giá trị, nhắc nhở mỗi người dân Đất mỏ về truyền thống đấu tranh bất khuất giành quyền làm chủ, xây dựng Vùng than ngày một giàu mạnh.
Từ trong cơ cực
Từ sau năm 1888, khi thực dân Pháp thành lập Công ty Than Bắc Kỳ và tiến hành thăm dò khai thác ở Cẩm Phả, công nhân mỏ và gia đình của họ trở thành dân cư chính tại đây. Bỏ quê hương về làm phu mỏ, nhưng cuộc sống của họ vô cùng cơ cực, phải sống trong cảnh nô lệ. Cái nghề “ăn cơm dương gian, làm việc âm phủ” đã khiến thợ mỏ bị vắt kiệt sức lực. Vậy mà chủ mỏ không chịu buông tha, chúng thường xuyên dùng đòn roi đánh đập dã man, cúp phạt lương. Phu mỏ bấy giờ, ai cũng sống trong cảnh lầm than, đói khát.
Phu mỏ thời Pháp phải sống cuộc sống vô cùng cơ cực. Ảnh Tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh.
Thế nhưng chính hoàn cảnh ấy đã khiến thợ mỏ và người dân Vùng than hơn ai hết luôn là những người kiên cường đấu tranh, đi theo tiếng gọi của Đảng. Ngày 12/11/1936 đã đi vào lịch sử, trở thành ngày truyền thống công nhân mỏ Việt Nam khi hơn 3 vạn thợ mỏ với tinh thần “Kỷ luật và Đồng tâm” đã tiến hành cuộc tổng bãi công buộc chủ mỏ phải tăng lương, giảm giờ làm. Sự kiện này đánh dấu bước trưởng thành của thợ mỏ, dấy lên phong trào đấu tranh lan tỏa trong nhân dân, góp phần làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp năm 1954 sau này.
Đón ngày giải phóng
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, nhiều địa phương trên cả nước đã về tay nhân dân, nhưng Vùng mỏ vẫn nằm trong vùng 300 ngày tập kết của quân Pháp. Đó là khoảng thời gian vô cùng khó khăn để có thể đi đến ngày giải phóng.
Ông Nguyễn Ngọc Đàm, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng (giai đoạn 1952-1961), kể lại: Với dã tâm của mình, ở Vùng mỏ, quân Pháp dùng mọi thủ đoạn vơ vét thật nhanh, thật nhiều sức người, sức của. Chúng ồ ạt khai thác than với dự tính sẽ bóc gần 80 vạn tấn than, bằng mức khai thác của cả 1 năm trước đó. Đồng thời, chủ mỏ Pháp cũng tìm cách di chuyển máy móc, thiết bị ra khỏi Vùng mỏ với ý định phải 20 đến 25 năm nữa người Việt Nam mới đào được than sau khi chúng đi…
Thế nhưng, chúng ta không chịu bó tay nhìn chúng cướp đi tài nguyên, công sức của mình. Với sự chỉ đạo của Trung ương, Đặc khu ủy Hòn Gai đã cho các cơ sở của ta trong Vùng mỏ bí mật thành lập các tổ tự vệ công nhân để bảo vệ máy móc thiết bị và các cơ sở công nghiệp. Với tinh thần đấu tranh bất khuất của thợ mỏ, những đội tự vệ công nhân Vùng mỏ đã kiên quyết không cho chủ mỏ Pháp di chuyển máy móc, thiết bị khai thác than. Những thợ mỏ giỏi cũng kiên quyết không nghe theo lời xúi giục của quân Pháp vào Nam mà ở lại giữ máy.
Người dân Cẩm Phả tưng bừng đón bộ đội vào giải phóng. Ảnh tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh.
Thợ mỏ làm tốt nhiệm vụ giữ máy móc, thiết bị, nhân dân sục sôi khí thế chuẩn bị đón chờ quân giải phóng. Trong ký ức của ông Vũ Hiển, người cả đời gắn bó với Vùng mỏ Cẩm Phả, những ngày tháng Tư lịch sử năm 1955 ấy thật đặc biệt. Dù vẫn bị quân Pháp thiết quân luật và ra sức tuyên truyền phản động về Việt Minh, nhưng lòng dân Vùng mỏ vẫn âm ỉ, náo nức mong chờ ngày giải phóng. “Nhà tôi bấy giờ là cơ sở cách mạng nên cán bộ thường xuyên bí mật về để tuyên truyền chuẩn bị cho ngày giải phóng. Không khí trong nhân dân sục sôi, người người, nhà nhà bàn tán về ngày chiến thắng. Từ trước đó nửa tháng, các gia đình như chúng tôi được tuyên truyền đều nô nức may cờ đỏ sao vàng. Mẹ tôi và nhiều cô bác thức thâu đêm để cắt, khâu lá cờ. Trẻ con thì được dạy cách gấp và cắt ngôi sao 5 cánh sao thật đẹp, ai cũng háo hức lắm!” – Ông Hiển chia sẻ.
Vỡ òa hạnh phúc
Bao nhiêu công sức của thợ mỏ, bao nhiêu háo hức chuẩn bị của người dân cuối cùng cũng được đền đáp. Ở Cẩm Phả, ngày 22/4 đã trở thành ngày hội với muôn người. Nhà giáo Vũ Hiển bồi hồi nhớ lại: “Với tôi, thời gian có thể làm quên đi nhiều thứ, nhưng những ký ức về ngày giải phóng không thể phai mờ. Hôm ấy, tôi dắt em trai cùng với nhiều người ra tận khu vực nhà thờ để chờ xe giải phóng đến. Quân Pháp bàn giao, rút đến đâu, bộ đội ta tiến vào đến đó, các gia đình trên tay đều có cờ, hoa vẫy chào. Lúc ấy Cẩm Phả chưa đông dân cư như bây giờ, nhưng khung cảnh thật tưng bừng, đâu đâu cũng nghe thấy những tiếng người hô vang: “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Hoan hô giải phóng”…
Bộ đội ta vào tiếp quản TX Hòn Gai tháng 4/1955, trong sự chào đón tưng bừng của người dân. Ảnh tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh.
Với những chiến sĩ vào tiếp quản Vùng mỏ, cảm xúc trong những thời khắc ấy vẫn còn vẹn nguyên. Ông Nguyễn Ngọc Thung, nguyên cán bộ Trung đoàn 244 – đơn vị tập trung từ các chiến trường phía Bắc về làm nhiệm vụ tiếp quản và bảo vệ vùng mới giải phóng, kể: “Ngay sau khi Trung đoàn 238 tiếp quản Cẩm Phả, cũng trong sáng 22/4, Trung đoàn 244 của chúng tôi đã tiến vào tiếp quản Cửa Ông, Cọc 6, Đèo Nai, rồi sang Quang Hanh, Hà Tu và về TX Hòn Gai. Đúng 12h ngày 24/4/1955, tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng rút khỏi Vùng mỏ và ngày 25/4/1955 rút khỏi Hòn Gai. Những người lính chúng tôi được đứng trong đội danh dự, cầm theo cờ đỏ sao vàng áp tải những tên lính Pháp lên tàu há mồm tại bến phà Bãi Cháy. Cảm giác lúc ấy vui vô cùng. Ngay khi tên lính cuối cùng bước lên tàu thì thuyền cá và người ùa ra, thuyền cắm cờ, người dân hai bên tay vẫy cờ hoa (không biết đã chuẩn bị từ khi nào) và hô vang “Ủng hộ Việt Minh”…
8 giờ 30 phút ngày 25/4/1955, Ủy ban Quân chính Hồng Quảng ra mắt trước toàn thể nhân dân. Ông Nguyễn Ngọc Đàm, Chủ tịch Ủy ban Quân chính khu Hồng Quảng, đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Hồng Quảng: “Những vùng quân đội Pháp chiếm đóng trước đây đã lần lượt được giải phóng, đồng bào Hòn Gai, Quảng Yên lại được sống tự do”.
Khí thế hồ hởi sản xuất than sau ngày giải phóng. Ảnh tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh.
Vùng mỏ được quân và dân ta tiếp quản, người dân được làm chủ cuộc đời và vùng đất quê hương. Niềm vui đến như vỡ òa, tiếp thêm sức mạnh để người dân Vùng mỏ băng qua những năm tháng cơ cực sau ngày giải phóng, bắt tay vào khôi phục sản xuất, làm nên kỳ tích khi nhanh chóng khôi phục hệ thống đường trục, sản xuất than. Rồi sau đó lại lao động “bằng năm, bằng mười” để xây dựng Vùng than, góp sức cùng cả miền Bắc chi viện cho miền Nam đánh Mỹ.
64 năm sau ngày giải phóng đã có rất nhiều đổi thay trên Đất mỏ Anh hùng. Ký ức về những năm tháng giải phóng ấy nhắc nhở mỗi người chúng ta hôm nay phát huy truyền thống, viết tiếp những “bản hùng ca” trên Vùng than thân yêu!
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tin-tuc/giai-phong-vung-mo-ky-uc-song-mai-201904261538516288.htm” button=”Theo vinacomin”]