1. Dự báo nhu cầu than
Theo dự báo trong Quy hoạch điều chỉnh “Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến 2030” (phê duyệt theo Quyết định số 403/2016/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ – sau đây viết tắt là QH 403/2016) nhu cầu than của nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng cao, cụ thể là (triệu tấn): đến năm 2020: 86,4; năm 2025: 121,5; năm 2030: 156,6; trong đó nhu cầu than cho sản xuất điện là: năm 2020: 64,1; năm 2025: 96,5; năm 2030: 131,1.
Theo cập nhật mới [4] nhu cầu than của nền kinh tế quốc dân sẽ giảm so với QH403/2016 nêu trên, cụ thể là (triệu tấn): đến năm 2020: 81,3; năm 2025: 110,9; năm 2030: 144,7 và 2035: 153,1; trong đó nhu cầu than cho sản xuất điện là: năm 2020: 59,5; năm 2025: 86,0; năm 2030: 119,4 và năm 2035: 127,5.
Nhu cầu than gia tăng nêu trên của nền kinh tế nói chung và cho sản xuất điện nói riêng là cần thiết và hoàn toàn có thể chấp nhận được xét trên mọi phương diện: nhu cầu điện, mức sử dụng than, vai trò của than trong đảm bảo an ninh năng lượng và mức phát thải khí nhà kính (CO2) của nước ta cũng như sự phù hợp với xu thế phát triển than trên thế giới. Chẳng hạn, đến 2017 sản lượng điện bình quân đầu người của Việt Nam mới chỉ đạt 2.029 kWh, bằng 59,8% bình quân đầu người của thế giới và rất thấp so với các nước công nghiệp phát triển; trong đó sản lượng điện than tính theo đầu người chỉ là 793 kWh, bằng 61,5% bình quân đầu người của thế giới (1.290 kWh) và rất thấp so bình quân đầu người của nhiều nước như: Úc (6.494), Đài Loan (5.402), Hàn Quốc (5.144), Mỹ (4.038), Nam Phi (3.961), Ka-dắc-xtan (3.572), Ba Lan (3.492), Trung Quốc (3.145), LB Đức (2.915), Nhật Bản (2.703), Ma-lai-xia (2.294. Hoặc sản lượng tiêu thụ than của Việt Nam đến 2017 chỉ chiếm 0,8% tổng tiêu thụ than của thế giới, bằng 49,3% của Indonesia; 30,6% của Nga; 1,5% của Trung Quốc; 8,5% của Mỹ; 23,4% của Nhật Bản; 71,6% của Đài Loan; 32,7% của Hàn Quốc (mặc dù 3 nước cuối có nguồn than trong nước rất ít), v.v. Nếu so bình quân đầu người, thì bình quân tiêu thụ than đầu người của Việt Nam năm 2017 chỉ bằng 54% của thế giới; 47,5% của châu Á-TBD; 47,5% của Nga; 29,7% của Mỹ; 22,1% của Trung Quốc; 46,8% của Malaixia; 17,9% của Hàn Quốc; 31,7% của Nhật Bản; chỉ cao hơn Thái Lan 8,6%, v.v. [1]. Hoặc đến năm 2017 Việt Nam có tổng phát thải CO2 từ ngành năng lượng chỉ chiếm 0,6% tổng phát thải CO2 toàn thế giới; tính theo bình quân đầu người thì chỉ bằng 45,3% bình quân đầu người của thế giới, 30,2% của Trung Quốc, 44,5% của Thái Lan, 24,8% của Malaixia, 15,2% của Hàn Quốc, 22,1% của Nhật Bản, 21,9% của Đức, 12,9% của Mỹ [1].
Đến năm 2030 nhu cầu than của Việt Nam được dự báo tương đương khoảng 80,4 triệu TOE (tấn dầu tiêu chuẩn), bình quân đầu người khoảng 0,77 TOE/người (tương ứng với dân số khi đó được dự báo là 104 triệu người).
Theo dự báo trong Kịch bản thông thường của JEEI Outlook 2018 (tháng 10/2017) thì đến năm 2030 nhu cầu than bình quân đầu người của thế giới (TOE/người) là: 0,5; trong đó của Trung Quốc: 1,48; Nhật Bản: 0,93; Hàn Quốc:1,74; Đài Loan: 1,75; Malaixia: 0,86; Thái Lan: 0,35; Mỹ: 0,78; Úc: 1,18.Như vậy, so với bình quân đầu người của thế giới thì nhu cầu than của Việt Nam đến năm 2030 cao hơn, song so với nhiều nước vẫn còn thấp hơn nhiều, nhất là so với Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Úc, Nhật Bản và một số nước giàu tài nguyên than.
2. Định hướng phát triển khai thác than trong nước
Theo dự báo trong QH 403/2016, sản lượng than thương phẩm trong giai đoạn đến năm 2030 dự kiến là (triệu tấn): năm 2020: 47-50; năm 2025: 51-54; năm 2030: 55-57.
Theo tài liệu [4], căn cứ vào thực trạng tài nguyên, trữ lượng than đã được thăm dò còn lại, sản lượng than thương phẩm sản xuất trong nước theo quy hoạch đã được cập nhật mới như sau (triệu tấn): năm 2020: 44; năm 2025: 45; năm 2030: 53 và năm 2035: 55 triệu tấn. Chi tiết như sau (ngàn tấn):
Để đạt được mức sản lượng than dự kiến nêu trên, theo QH403/2016 từ năm 2016 đến 2030 toàn ngành Than cần tổng nhu cầu vốn đầu tư là 269.006 tỷ đ, bình quân 17.934 tỷ đồng/năm. Với tình hình giá thành than ngày càng tăng cao và năng lực tài chính của doanh nghiệp còn hạn hẹp, trong thời gian tới ngành Than không những phải đối mặt với nguy cơ bị lỗ mà việc huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sẽ vô cùng khó khăn.
3. Cân đối cung cầu than trong nước và nhu cầu nhập khẩu than
3.1. Cân đối cung cầu than
Nguyên tắc cân đối: Việc cân đối than cho các hộ tiêu thụ trong nước thực hiện theo nguyên tắc sau: Ưu tiên cấp tối đa than cho sản xuất điện (bao gồm các chủng loại than cám 4b, cám 5, cám 6, cám 7); sản lượng than còn lại cân đối cho các hộ theo thứ tự ưu tiên là: phân bón, hóa chất, xi măng, các hộ khác. Riêng luyện kim sử dụng than cốc nên cân đối hết các nguồn than cốc trong nước sản xuất được cho luyện kim, còn thiếu sẽ nhập khẩu.
Theo tinh thần đó, trong tổng số sản lượng than thương phẩm sản xuất, than đủ tiêu chuẩn để cấp cho sản xuất điện chiếm khoảng 80%, cụ thể là năm 2020 khoảng 35 triệu tấn, năm 2025: 36,3 triệu tấn, năm 2030: 39,8 triệu tấn và năm 2035: 39,5 triệu tấn.
Như vậy để đáp ứng nhu cầu than cho sản xuất điện, Việt Nam phải nhập khẩu than cho điện khoảng 25 triệu tấn vào năm 2020; khoảng 50 triệu tấn vào năm 2025 (trong đó, các NMNĐ BOT tự thu xếp khoảng 25 triệu tấn); khoảng 80 triệu tấn vào năm 2030 (trong đó, các NMNĐ BOT tự thu xếp khoảng 40 triệu tấn) và khoảng 88 triệu tấn vào năm 2035 (trong đó, các NMNĐ BOT tự thu xếp khoảng 43 triệu tấn). Như vậy, từ năm 2020 trở đi việc phát triển nhiệt điện than phụ thuộc vào việc thu xếp nguồn than nhập khẩu.
* Phân bón, hóa chất: Khả năng đáp ứng than cho ngành phân bón – hoá chất đạt trung bình khoảng 3,03.4 triệu tấn/năm (đạt khoảng 70% so với nhu cầu).
* Xi măng: Từ năm 2019, trở đi sẽ thiếu than cho xi măng khoảng từ 3 đến 4,5 triệu tấn/năm, bằng khoảng 65% so với nhu cầu than cho xi măng.
* Luyện kim: Chủ yếu sử dụng than cốc – là chủng loại than trong nước sản xuất được rất hạn chế, không đủ để cung cấp. Hàng năm, ngành thép vẫn phải nhập khẩu than cốc với khối lượng 4,0 tới 7,0 triệu tấn/năm. Trong những năm tới, khi nhu cầu cho sản xuất gang tăng cao, cần thiết phải tìm thị thường để nhập khẩu lâu dài.
* Các hộ khác: Khả năng cung cấp than chỉ đạt khoảng 1,0÷3,0 triệu tấn/năm, sẽ thiếu khoảng 4,0÷5,0 triệu tấn/năm, cần có cơ chế khuyến khích các hộ này chuyển sang sử dụng các dạng năng lượng khác.
3.2. Định hướng nhập khẩu than và đầu tư khai thác than ở nước ngoài
Lựa chọn nguồn cung cấp than: Trước mắt và trung hạn là thị trường than Indonesia và Úc. Trong dài hạn, ngoài thị trường Úc cần tập trung mở rộng sang thị trường Nga, Nam Phi và một số thị trường tiềm năng khác như Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ, Côlômbia,…
Giải pháp đảm bảo nguồn cung: Mục tiêu lớn nhất của nhập khẩu than cho sản xuất nhiệt điện là đảm bảo được nguồn cung ổn định trong dài hạn (theo vòng đời nhà máy điện) với giá cạnh tranh. Để thực hiện được mục tiêu đó cần phải triển khai nhiều giải pháp đồng thời đảm bảo nguồn cung như sau: Đa dạng hoá nguồn cung; Đầu tư chiếm lĩnh thị trường đảm bảo thị phần chắc chắn, ổn định.
Để có nguồn than ổn định phải đầu tư mua mỏ ở nước ngoài. Kinh nghiệm của các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… đã đầu tư mua mỏ ở các nước khu vực Châu Á-TBD từ hàng chục năm nay. Đây là dạng đầu tư mạo hiểm và nhiều rủi ro cần có chiến lược bài bản và Chính phủ phải có sự hỗ trợ thích đáng bằng các hình thức thích hợp từ cơ chế chính sách, hỗ trợ đầu tư, hợp tác quốc tế, đường lối ngoại giao năng lượng, v.v.
Theo kinh nghiệm nhập khẩu của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc (nhập khẩu hàng năm từ 120÷180 triệu tấn than) thì tỷ lệ giữa việc nhập khẩu than từ đầu tư (bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp) và nhập khẩu than theo hợp đồng thương mại khoảng 50/50. Vì vậy, để đảm bảo nguồn than cung cấp lâu dài và ổn định cho các NMNĐ than, việc nhập khẩu than cần thiết phải gắn liền với đầu tư khai thác mỏ than ở nước ngoài. Để đạt được mục tiêu này, trong ngắn và trung hạn cần tăng cường tìm kiếm mỏ để đầu tư tạo nguồn than nhập khẩu từ các nước như Inđônêxia, Úc,…; về dài hạn cần mở rộng sang khu vực Viễn Đông, miền Nam Liên bang Nga, Ukraina, v.v. Trong quá trình đầu tư cần đa dạng hóa các hình thức như: Đầu tư các mỏ mới hoặc mua lại mỏ để thăm dò, khai thác; mua cổ phần của các công ty đang khai thác và xuất khẩu để giành quyền mua lượng than tương ứng với tỷ lệ cổ phần đầu tư. Đối với việc mua theo hợp đồng thương mại để đảm bảo cạnh tranh và tránh rủi ro cần đa dạng các hình thức hợp đồng nhập khẩu than như: Hợp đồng dài hạn, hợp đồng theo năm hay hợp đồng theo từng chuyến với tỷ lệ từng loại than phù hợp.
Về tổ chức nhập khẩu than: Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc thì tập trung chủ yếu vào các đơn vị có tiềm lực tài chính, có cơ sở hạ tầng bến cảng, kho bãi đảm bảo môi trường, trong đó bao gồm các đơn vị tiềm lực lớn như TKV, EVN, PVN, TCT Đông Bắc và các chủ đầu tư NMĐ, NM xi măng lớn và các đơn vị kinh doanh thương mại đáp ứng các điều kiện về kinh doanh than.
4. Cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện PTBV ngành Than Việt Nam
4.1. Về khai thác than trong nước
Mục tiêu: Đảm bảo tăng trưởng ổn định và giá thành hợp lý nhằm nâng cao tính tự chủ trong việc cung cấp than cho sản xuất điện gắn với đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
4.1.1. Đối với Nhà nước
a) Về nâng cao năng lực và thúc đẩy khai thác than gắn với BVMT.
-Nâng cao chất lượng quy hoạch trên cơ sở đổi mới tư duy, cách tiếp cận và phương pháp xây dựng quy hoạch than và quy hoạch các phân ngành năng lượng phù hợp với nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập ngày càng sâu rộng.
– Chính phủ quyết liệt chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương liên quan khẩn trương khắc phục các vướng mắc để đẩy nhanh việc cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác theo tinh thần giảm điều kiện kinh doanh và tăng cường hậu kiểm; khắc phục những bất cập, chồng chéo trong một số quy hoạch của địa phương gây cản trở đối với việc thực hiện quy hoạch than, nhất là tại Quảng Ninh nhằm tạo điều kiện triển khai kịp thời các hoạt động thăm dò, khai thác phần tài nguyên, trữ lượng than đang bị vướng các quy hoạch địa phương.
– Để nắm chắc tài nguyên than (thuộc sở hữu Nhà nước) làm cơ sở cho việc lập quy hoạch một cách tin cậy trong bối cảnh đầu tư cho thăm dò có quá nhiều rủi ro, Nhà nước cần tăng cường đầu tư thăm dò từ nguồn vốn NSNN và/hoặc có chính sách hỗ trợ thích hợp cho doanh nghiệp đẩy mạnh công tác thăm dò than.
– Nâng cao chất lượng cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động thăm dò, khai thác, kinh doanh than theo đúng quy hoạch than đã phê duyệt và quy định của pháp luật.
– Tổ chức sản xuất than nên duy trì hình thức nhóm công ty theo mô hình công ty mẹ – công ty con để tạo điều kiện điều tiết giữa mỏ thuận lợi và mỏ khó khăn nhằm duy trì sản lượng, ổn định giá, đảm bảo an sinh xã hội và khai thác tận thu tài nguyên than.
– Nhà nước cần kịp thời điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách tiền lương, chăm sóc sức khỏe, phúc lợi xã hội, nhà ở, bảo hiểm để thu hút lao động cho các mỏ than hầm lò.
– Nhà nước xem xét giảm thuế, phí một cách hợp lý phù hợp với đặc điểm của khai thác than, vừa để tạo điều kiện cho ngành Than có lợi nhuận đủ trích lập quỹ đầu tư phát triển, vừa khuyến khích khai thác tận thu tối đa tài nguyên theo đúng chính sách về khai thác tài nguyên khoáng sản. Trước hết, Nhà nước cần bỏ khoản tiền cấp quyền khai thác vì thực chất khoản thu này trùng với thuế tài nguyên. Tiếp theo, cần xem xét giảm thuế tài nguyên xuống mức tối thiểu để khuyến khích khai thác tận thu tài nguyên, cụ thể đối với than hầm lò là 4% và than lộ thiên là 6%.
– Chỉ đạo thực hiện nghiêm Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 26/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động SXKD than.
– Cho phép ngành Than xuất khẩu một cách ổn định, lâu dài một số loại than không phụ thuộc vào hạn ngạch mà trong nước không hoặc có nhu cầu thấp theo nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và ưu tiên đáp ứng nhu cầu than trong nước khi cần thiết.
– Để đối phó với gián đoạn nguồn cung than, nhất là than nhập khẩu do các nguyên nhân thị trường và phi thị trường (như tác động của biến đổi khí hậu, biến động chính trị – xã hội, trừng phạt kinh tế, v.v.), Nhà nước cần thiết lập Dự trữ quốc gia về than để cung cấp than khẩn cấp nhằm đảm bảo an ninh năng lượng khi có các tình huống gián đoạn nguồn cung than vượt quá mức dự trữ than của các doanh nghiệp.
– Ban hành Quy chuẩn môi trường ngành Than phù hợp với đặc điểm của khai thác than (thay cho việc áp dụng chung Quy chuẩn môi trường công nghiệp hiện nay).
b) Về phát triển thị trường than trong nước gắn với đảm bảo ANNL quốc gia.
-Xây dựng lộ trình, các điều kiện và tái cơ cấu ngành Than để phát triển thị trường than vận hành công khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.
– Xây dựng lộ trình thực hiện SXKD than theo cơ chế thị trường gắn với đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
– Tăng cường cơ chế mua bán than theo hợp đồng kinh tế dài hạn (tối thiểu 5 năm) giữa nhà sản xuất, cung ứng than và các nhà máy nhiệt điện than.
c) Về tăng cường sử dụng than hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và phát triển nhiệt điện than đảm bảo giảm phát thải khí nhà kính, thân thiện với môi trường.
– Ban hành chính sách sử dụng than hợp lý, nhất là về chủng loại và chất lượng phù hợp cho các hộ sử dụng than: điện, xi măng, phân bón, giấy và các hộ khác; đặc biệt ưu tiên sử dụng than khai thác trong nước nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngành Than ổn định sản xuất than và đầu tư phát triển than bền vững trong lâu dài.
4.1.2. Đối với doanh nghiệp
– Đẩy mạnh đầu tư thăm dò một cách hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn và nâng cao mức độ tin cậy của công tác thăm dò nhằm thực hiện mục tiêu nắm chắc tài nguyên.
– Đẩy mạnh đầu tư đổi mới, hiện đại hóa công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao vật tư và tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác.
– Tăng cường công tác đảm bảo an toàn lao động theo tinh thần kiên định với mục tiêu “tai nạn bằng không”.
– Tăng cường công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
– Tăng cường đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; có chính sách, biện pháp thích đáng thu hút công nhân hầm lò.
– Tăng cường hợp lý hóa sản xuất và công tác quản trị chi phí để tận dụng tối đa tài nguyên than, giảm tiêu hao vật tư, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí trên cơ sở giảm thất thoát, lãng phí trong sử dụng vật tư, giảm tồn kho, quay nhanh vòng vốn.
– Tăng cường sự hợp tác chặt chẽ, bền vững, hiệu quả giữa các doanh nghiệp SXKD than, các đơn vị phụ trợ và các hộ sử dụng than, nhất là các NMNĐ than.
– Có giải pháp huy động tối đa các nguồn lực của xã hội tham gia đầu tư để góp phần thúc đẩy tiến độ thi công và nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư khai thác than.
– Tăng cường hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế với các đối tác có tiềm lực mạnh.
4.2. Về nhập khẩu than và đầu tư khai thác than ở nước ngoài
a) Về chiến lược, cơ chế chính sách và công tác quản lý nhà nước.
– Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương và các Bộ ngành liên quan có biện pháp, chính sách thích hợp đẩy mạnh nghiên cứu, tìm hiểu các tiềm năng tài nguyên than và cơ hội đầu tư, pháp luật quốc tế về thương mại và đầu tư, văn hóa bản địa, nguồn nhân lực, v.v. của các nước có tiềm năng tài nguyên than, trên cơ sở đó khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược cùng các chính sách nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than.
– Duy trì hoạt động của Ban chỉ đạo Quốc gia về nhập khẩu than để chỉ đạo triển khai công tác nhập khẩu than một cách đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt.
– Cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết về cách xác định các chi phí trong cơ cấu giá than cho sản xuất điện (chi phí quản lý, chi phí hao hụt…) mà chưa được làm rõ trong Thông tư 13/2017/TT-BCT ngày 3/8/2017 của Bộ Công Thương.
– Chính phủ cần sớm có chỉ đạo về phương án xây dựng cảng trung chuyển than nhập khẩu cũng như có các chính sách hỗ trợ mang tầm chiến lược, ổn định lâu dài để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư dài hạn, quản lý hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh lâu dài với các doanh nghiệp trên thế giới.
– Chính phủ và Bộ Công Thương cần có những chỉ đạo kịp thời tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường nhập khẩu than. Cần có các văn bản thay thế các văn bản song hành chưa thống nhất (như các văn bản số 46, số 2172).
– Chính phủ và các cấp có thẩm quyền cần có những văn bản hướng dẫn chi tiết về việc tạo cơ hội cho các đội tàu Việt Nam tham gia vận chuyển hàng hóa theo Văn bản số 375/TTg-CN ngày 10/3/2017, đảm bảo cạnh tranh, minh bạch và đúng quy định của pháp luật và các công ước Quốc tế Việt Nam tham gia; đồng thời có cơ chế chính sách khuyến khích để phát triển đội tàu vận chuyển nội địa/ven biển chuyên dụng phù hợp cho việc vận chuyển, bốc dỡ.
b) Về nâng cao năng lực nhập khẩu than và đầu tư khai thác than ở nước ngoài.
Nhà nước thực hiện hoặc có chính sách, giải pháp thích hợp hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu than. Cho phép các đầu mối nhập khẩu than tham gia đầu tư, xây dựng hoặc ký hợp đồng dài hạn với các đối tác sở hữu cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu than, đảm bảo việc quản lý chuỗi cung ứng tối ưu nhất, tiết kiệm chi phí than nhập khẩu. Bên cạnh đó, cho phép nghiên cứu xây dựng các trung tâm quản lý than cho mỗi cụm các NMNĐ than (3-5 nhà máy) với mục đích quản lý giao nhận, phối trộn và điều hành chuỗi cung ứng tập trung cho các NMNĐ than trong cụm.
– Có biện pháp thúc đẩy, liên kết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh than hợp tác, hợp lực với các doanh nghiệp sử dụng than trong nước cũng như các đối tác nước ngoài trong việc nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than.
– Đối với việc nhập khẩu than cho sản xuất điện, nên giao cho các đầu mối chủ động thu xếp nguồn than ổn định lâu dài bằng các hợp đồng trung và dài hạn (3-5 năm) thông qua việc đàm phán trực tiếp với chủ mỏ (với khối lượng từ 60% đến 80% tổng nhu cầu than). Quá trình đàm phán trực tiếp lựa chọn các nhà cung cấp dài hạn phải đảm bảo tính cạnh tranh, minh bạch, dựa trên các chỉ số giá toàn cầu, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của luật pháp Việt Nam.
– Trong quá trình phê duyệt dự án đầu tư các NMNĐ than dùng than nhập khẩu, cần đặc biệt chú trọng đến nguồn than nhập khẩu, công tác vận chuyển, quản lý và điều phối chuỗi cung ứng than để đảm bảo việc cung cấp than cho các nhà máy được ổn định, lâu dài theo thiết kế được phê duyệt.
Tài liệu tham khảo:
1. BP Statistical Review of World Energy 2018.
2. Điều chỉnh “Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến 2030” được phê duyệt theo Quyết định số 403/2016/QĐ-TTg ngày 14/3/2016.
3. Niên giám Thống kê Việt Nam 2017.
4. Đề án phát triển thị trường than Việt Nam gắn với SXKD than theo cơ chế thị trường và đảm bảo ANNL quốc gia (Dự thảo 11/2018). Công ty CP Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp – TKV.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/dinh-huong-phat-trien-ben-vung-nganh-than-viet-nam-gan-voi-dam-bao-an-ninh-nang-luong-201901181507032041.htm” button=”Theo vinacomin”]