Đó là Anh hùng Lao động Nguyễn Văn Tía, nguyên Quản đốc phân xưởng KT 4, hiện là trợ lý Giám đốc Công ty than Mạo Khê. Trên 30 năm trực tiếp lao động dưới hầm lò, trong đó trên 10 năm làm thợ cuốc lò nên bạn bè, đồng nghiệp thường gọi vui anh là “Anh hùng chống cuốc”…
Sinh ra trên mảnh đất Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, song cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Tía lại gắn liền với quê hương vùng mỏ Quảng Ninh. Nhớ lại những ngày đầu tiên bước chân vào hầm lò, anh Tía tâm sự: “Rời vùng quê ra Quảng Ninh lập nghiệp, tôi xin vào làm công nhân đào lò mỏ Mạo Khê (nay là Công ty than Mạo Khê. Thú thật đến bây giờ, tôi chưa một phút quên đi cái cảm giác lần đầu xuống lò. Đường lò tối dần, bé dần, sâu dần, ngột ngạt dần. Càng đi tôi càng không thấy ánh sáng, trong tưởng tượng của tôi, mọi thứ trong lò đều góc cạnh, hầm hố, lạnh lẽo, im ắng. Những tiếng bước chân, những tiếng cuốc, tiếng choòng… như là vọng lại từ một thế giới khác. Tất cả làm thằng trai trẻ nông thôn 17 tuổi như tôi thấy sợ; sợ đến nỗi có hôm không còn đủ sức lực để cầm cuốc, cuốc than một cách chính xác nữa. Nhưng mà rồi tình yêu với nghề đến lúc nào chẳng biết và cuộc đời tôi, sự nghiệp của tôi gắn liền với vùng đất này”.
3 năm sau đó, anh đã trở thành công nhân cuốc lò bậc 4, rồi được đề bạt tổ trưởng sản xuất lò 56/3. Từ kinh nghiệm thực tế của người thợ mỏ cộng với ý chí dám nghĩ, dám làm, anh đã đưa phong trào thi đua lao động sản xuất của Phân xưởng 56/3 dẫn đầu toàn mỏ.
Năm 1990, Nguyễn Văn Tía được tín nhiệm đề bạt Quản đốc Phân xưởng KT 4, được giao nhiệm vụ khai thác than ở lò vỉa 6 Bình Minh. Trong thời gian này, sản xuất của ngành Than bị thu hẹp, lương thợ mỏ rất thấp, hàng loạt thợ mỏ phải nghỉ theo chế độ. Là Quản đốc phân xưởng khai thác độc lập, vì trăn trở ngày đêm lo đủ việc làm cho công nhân trong phân xưởng, anh đề nghị lên lãnh đạo cho phân xưởng của mình đảm nhận khai thác các vỉa than còn lại tại khu vực Bình Minh – Tràng Khê 2, tiếp nhận thêm toàn bộ dây chuyền vận tải than từ khu vực khai thác đưa ra nhà sàng khu 56 rồi sắp xếp lao động hợp lý, đảm bảo công nhân có đủ việc làm ổn định. Năm 1996, Phân xưởng khai thác 4 lại được giao nhiệm vụ khai thác vỉa 9B Tây -25 lên +30. Tại đây đường lò có độ dốc cao, điều kiện địa chất không ổn định, vỉa than kẹp đá và nguy hiểm hơn là trong lò luôn có lượng khí độc (CH4) ở nồng độ cao. Để đảm bảo an toàn trong lò và phòng chống các nguy cơ sự cố tụt lò, Quản đốc Nguyễn Văn Tía là người đầu tiên đề xuất sáng kiến chống lò khấu càn tận thu các trụ than bảo vệ để nâng cao sản lượng than khai thác hàng ngày. Khi đường lò đi càng sâu thì biện pháp an toàn kỹ thuật trong khai thác càng phải được chú trọng đầu tư lớn. Nguyễn Văn Tía đã nghiên cứu và mạnh dạn đề nghị Công ty cho phép được áp dụng phương pháp chống cột thủy lực bằng công nghệ khai thác ngang nghiêng tại diện sản xuất của đơn vị mình quản lý (do lò chợ vỉa 9B Đông có độ dốc lớn > 450 ). Thành công của phương pháp này đã mở ra triển vọng mới trong việc ứng dụng công nghệ khai thác, đảm bảo an toàn cao đối với các vỉa than có độ dốc lớn không chỉ tại Mạo Khê, mà cả ngành Than.
Với trình độ và kinh nghiệm được tích lũy trong lao động sản xuất, hàng năm anh Tía đã lãnh đạo Phân xưởng của mình hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu khai thác than, đồng thời là đơn vị luôn dẫn đầu trong phong trào thi đua lao động sản xuất, sản lượng khai thác than hàng năm đạt từ 117 -121% so với kế hoạch giao. Từ năm 2000- 2006, Phân xưởng của anh luôn đạt năng suất kỷ lục dẫn đầu ngành than với sản lượng khai thác từ 13 – 14 vạn tấn/năm, thu nhập bình quân hàng năm tăng từ 15 – 25 %.
“KỲ TÍCH” XỬ LÝ SỰ CỐ BỤC NƯỚC HẦM LÒ
Một kỷ niệm và cũng chính là “kỳ tích” của Nguyễn Văn Tía trong việc đề xuất phương án xử lý sự cố bục nước lớn trên lò chợ lớp trụ vỉa 9B Đông tầng -25 lên +30 (tháng 4/2000), mang lại hiệu quả thiết thực trong sản xuất của đơn vị và toàn Công ty: Đó là sự cố lớn lò chợ bị tụt nước, lượng nước từ 70 đến 80 m3/h đổ xối xả xuống đường lò gây sập toàn bộ dàn chống thủy lực. Toàn mỏ huy động hết các phương tiện, thợ lò có tay nghề cao để cứu lò. Một mình anh Tía tự chui rúc vào khu vực lò bị sập đổ để xác định hiện trạng và tìm ra nguyên nhân để có biện pháp khắc phục. Khi các biện pháp kỹ thuật được triển khai thì cũng là lúc Nguyễn Văn Tía tự mò mẫm trong lò đổ mà chỉ có đường từ dưới lên đến chỗ lò sập, phía trên thì tắc hoàn toàn. Nước từ nóc lò xối thẳng vào gương than, đưa lượng than trôi đọng xuống chân cột kéo dài đến 150m dưới lò chợ. 16 giờ liên tục trong lò, Nguyễn Văn Tía be bờ lái dòng nước chảy, không cho xối vào gương than. Ra ngoài, chỉ kịp ăn 1 chiếc bánh mỳ, anh lại tiếp tục vào lò tìm tòi phương án, đó là xẻ các bạnh gỗ để thợ lò bậc cao đưa vào khu vực lò tụt, chặn các chân cột từ dưới lên để đưa đất, đá, than đã tụt xuống lò chợ vận chuyển ra ngoài, nhằm củng cố lối đi lại tạm thời, tổ chức thông gió và giữ được ổn định thành lò chợ cũ. Trong 15 ngày đó, anh Tía tiên tục có mặt tại nơi sụt lò 15-16 giờ/ngày để vừa áp dụng biện pháp, vừa tổ chức chỉ đạo một số công nhân dũng cảm, đội thợ lò bậc cao khắc phục luồng nước chảy không ảnh hưởng đến thành lò chợ, triệt tiêu được nguy cơ tụt đổ lò, bảo vệ được toàn bộ số vì chống thủy lực đơn trên lò chợ, mang lại hiệu quả cao về kinh tế, với giá trị làm lợi trên 3,5 tỷ đồng. Đặc biệt là giữ được toàn bộ diện sản xuất (nếu phải mở lại diện mới sẽ tốn rất nhiều thời gian và chi phí vật tư cũng như công sức lao động của thợ lò).
HẠNH PHÚC LÀ ĐÀO TẠO NÊN NHIỀU LỚP THỢ LÒ MỚI
Trong chương trình Vinh quang Việt Nam lần V, được truyền hình trực tiếp trên VTV1 cách đây 7 năm, Nguyễn Văn Tía là 1 trong 8 khách mời của chương trình đó. Nguyễn Văn Tía có nói đến niềm hạnh phúc trong nghề của anh là đã đào tạo được những thợ lò trẻ. Hỏi anh về chuyện này, anh chia sẻ một cách giản dị: “Hạnh phúc lớn nhất của tôi chính là đã góp phần đào tạo nên những lớp thợ lò có kinh nghiệm trong khai thác than và đào lò, có đủ bản lĩnh làm chủ mọi việc kể cả khi có sự cố phức tạp xảy ra. Tôi xuất thân từ người thợ, cái mà tôi có là những kinh nghiệm thực tế, trong đó có những điều mà sách vở không dạy được; ví dụ như bản lĩnh khi đứng trước khó khăn hay ý chí khắc phục các sự cố bất thường… Từ những điều tôi biết, tôi chiêm nghiệm thấy thì tôi truyền đạt lại cho các thợ trẻ. Tôi đặc biệt chỉ bảo các bạn ấy về ý thức chấp hành các nguyên tắc bảo hộ lao động, cách nhận biết các nguy cơ sự cố cũng như bản lĩnh khi xử lý tình huống. Đến nay, nhiều học trò của tôi, có thể nói như vậy, đã và đang nắm giữ nhiều cương vị chủ chốt và quan trọng của nhiều đơn vị ngành Than. Và tôi mừng nhất là họ đều đã và đang thể hiện khả năng nắm bắt và xử lý các tình huống sự cố một cách chủ động, linh hoạt, thông minh và hiệu quả. Đây chính là điều mà tôi nghĩ những người thợ lò cần có…”
Trong quá trình công tác, dù ở cương vị nào Nguyễn Văn Tía luôn gương mẫu đi đầu trong phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Tính đến nay, anh đã có hàng chục sáng kiến được áp dụng trong sản xuất, có giá trị làm lợi hàng trăm triệu đồng, 3 lần vinh dự được Tổng LĐLĐ Việt Nam tặng Bằng Lao động sáng tạo. Với rất nhiều thành tích cũng như “kỳ tích” của mình, anh Nguyễn Văn Tía đã nhận nhiều danh hiệu cao quý, trong đó đặc biệt được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới”.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/anh-hung-chong-cuoc-nguyen-van-tia-5275.htm” button=”Theo vinacomin”]