Năm mới Quý Tỵ đang đến rất gần với nhiều hứa hẹn và thách thức mới. Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam đã ghi lại tâm sự của một số “chính khách” trong Tập đoàn về những mảng công việc của họ trong năm qua và những dự định, ước vọng trước thềm xuân mới. “Chính khách” trong câu chuyện đầu năm của chúng tôi có thể là những người đứng đầu Tập đoàn, đứng đầu các Ban cũng như các đơn vị thành viên hoặc một tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị. Nhưng tất cả, tựu trung lại, đó là những chia sẻ rấ
Tôi cho rằng “Cơn bão” suy giảm kinh tế toàn cầu 2012 và dự báo chưa có hồi kết đã đẩy chúng ta vào khó khăn nhưng cũng cho chúng ta những bài học hết sức quý giá, thấm thía về thực tiễn quy luật vận động của kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong đó có chúng ta đã “kịch chân tường” về năng lực cạnh tranh trước nền kinh tế suy giảm, sản phẩm rớt giá. Nếu không giảm được giá thành thì sẽ chẳng “chơi” được với ai, lấy đâu ra hiệu quả để tồn tại chứ chưa nói đến phát triển. Có lẽ đã đến lúc không còn cách nào khác là phải nhìn thẳng vào sự thật trước câu hỏi đặt ra nếu còn tồn tại thì phải giải quyết bài toán cạnh tranh ra sao? Trong dự thảo về sửa đổi hiến pháp trình Quốc hội vừa qua, có một điểm mới là bỏ hiến định kinh tế Nhà nước là chủ đạo đã thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Thực sự “dòng sữa mẹ nhà nước” đã cạn kiệt rồi không thể còn chỗ cho hai chữ bao cấp nữa. Việt Nam cũng đã hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Riêng cam kết với WTO, khi Việt Nam gia nhập thì cũng có 3 cam kết về DNNN, trong đó, có cam kết đầu tiên là DNNN cũng phải hoạt động trên cơ sở thị trường giống như các doanh nghiệp khác; thứ hai, đầu tư của DNNN không được coi là đầu tư của nhà nước, nghĩa là các DNNN phải tự tìm các nguồn vốn của mình; thứ ba, vai trò của Nhà nước trong các DNNN chỉ được quyền tương ứng với số vốn mà nhà nước góp vào đó thôi. Như vậy, có thể sẽ là DNNN nhưng trong đó có nhiều chủ sở hữu khác nhau, chứ không phải nhà nước là chủ sở hữu duy nhất, khi nhà nước có sở hữu ở đó cũng chỉ được quyền tương ứng với số cổ phần của mình. Với những quy định như vậy, tôi nghĩ rằng, Việt Nam chắc chắn vẫn phải thúc đẩy thực hiện theo những cam kết đã có với WTO và cải cách DNNN cũng theo hướng đó.
Chúng ta đang bàn nhiều về vấn đề tái cấu trúc. Theo tôi cuối cùng mấu chốt là tái cấu trúc đầu tư công, sử dụng hiệu quả đồng vốn nhà nước đầu tư thế nào đối với các dự án. Năm qua Tập đoàn đã thí điểm và thành công ở một dự án thực hiện xã hội hóa đầu tư (Băng tải cấp than cho nhà máy nhiệt điện Mạo Khê) và chắc chắn thời gian tới sẽ áp dụng triệt để chủ trương này. HĐTV sẽ cùng bộ máy điều hành quán triệt sâu sắc những nội dung trong tái cấu trúc theo chỉ đạo của Chính phủ trong đó có vấn đề xã hội hóa đầu tư. Đồng thời, việc giải bài toán cạnh tranh cũng phải làm ngay, làm quyết liệt. Từng giám đốc các công ty, đơn vị sẽ hoàn toàn tự chủ, tự quyết định giá thành chứ không phải Ban kế hoạch hay Lãnh đạo Tập đoàn. Sẽ không còn bao cấp, xin cho, kêu khó… HĐTV sẽ có quy chế trong nội bộ Tập đoàn phù hợp với tình hình mới. Cá nhân nào không làm được sẽ có cá nhân khác thay thế. Cơ quan tuyên truyền của Tập đoàn cũng phải giúp Lãnh đạo phát hiện những điển hình có năng lực, tâm huyết để bổ sung vào đội ngũ quản lý, kế cận, thay thế…
Có thể nói, 2012 là năm hết sức khó khăn đối với Vinacomin. Tuy nhiên, 2012 lại chính là năm ghi nhận sự năng động, quyết tâm và ý chí vượt khó của CBCNV toàn Tập đoàn. Lãnh đạo Tập đoàn đã chủ động theo dõi sát diễn biến thị trường, từ đó đưa ra những giải pháp quản lý, điều hành quyết liệt, kịp thời; đồng thời, tích cực, chủ động báo cáo, kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành, phối hợp với tỉnh Quảng Ninh nhằm tháo gỡ khó khăn. Theo đó, sau 2 lần điều chỉnh kế hoạch, năm 2012, Vinacomin đã chốt lại và hoàn thành tiêu thụ 39 triệu tấn than; ổn định việc làm cho người lao động. Đặc biệt, với việc chủ động thông tin, phân tích cho CBCNV hiểu những khó khăn, thách thức mà Tập đoàn đang phải đối mặt…, hầu hết CBCNV đều hiểu và sẵn sàng chia sẻ; truyền thống “Kỷ luật – đồng tâm” của người thợ mỏ lại một lần nữa được phát huy mạnh mẽ.
“Cùng chia sẻ, chung sức vượt qua khó khăn” không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, mà chính suy nghĩ, nhận thức này của gần 14 vạn CBCNV đã giúp Tập đoàn bình tĩnh, kiên cường vượt qua năm 2012”. Đó cũng chính là cơ sở tạo nên niềm tin để lãnh đạo Tập đoàn xây dựng kế hoạch năm 2013. Cụ thể, trong năm 2013, nhiệm vụ của Vinacomin là tiêu thụ 43 triệu tấn than, tăng 4 triệu tấn so với năm 2012, trong đó, tiêu thụ trong nước 27 triệu tấn, xuất khẩu 16 triệu tấn. Bóc đất đá 250 triệu m3, tăng 9,9% so với năm 2012. Đào tổng số 380 km lò, tăng 9% so với năm 2012, trong đó đào lò xây dựng cơ bản 64 km. Sản lượng phát điện thương mại 8,5 tỷ kWh, các nhà máy: Nhiệt điện Na Dương, Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả 1 và 2 phát tương ứng công suất; Mạo Khê phấn đấu vận hành thương mại tổ máy 2 trong tháng 2/2013, sớm hơn thời hạn hợp đồng là 2 tháng. Ngoài các sản phẩm khoáng sản như đồng tấm, kẽm thỏi, thiếc…, năm 2013 sẽ có sản phẩm alumin của Công ty nhôm Lâm Đồng (dự kiến 300.000 tấn).
Ban lãnh đạo Tập đoàn xác định, phải chủ động bám sát diễn biến thị trường, tập trung chỉ đạo điều hành sản xuất linh hoạt để duy trì sản xuất ổn định, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, mô hình quản trị phù hợp, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất – chất lượng, tiếp tục cải thiện tiền lương, điều kiện làm việc và phúc lợi cho người lao động, đặc biệt là đội ngũ thợ lò, đảm bảo phát triển bền vững, tạo đà thực hiện thắng lợi các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2011 – 2015…
Có rất nhiều khó khăn đặt ra cho năm 2013, cũng như có nhiều việc cần phải giải quyết. Nhưng với truyền thống vượt khó, kỷ luật đồng tâm và tinh thần lao động sáng tạo của những người thợ mỏ ngành Than – Khoáng sản, đặc biệt là việc triển khai thực hiện kế hoạch phối hợp kinh doanh năm 2013 một cách hiệu quả, tôi tin rằng, sức mạnh gắn kết sẽ là lực đẩy để Vinacomin tiếp tục ổn định và tạo nên những bước đột phá phát triển trong những năm tới…
Trong những năm qua, xuất phát từ những đòi hỏi trong quá trình tổ chức sản xuất, những cơ chế chính sách của Nhà nước, Tập đoàn đã quan tâm đặc biệt đến việc hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ để đáp ứng sự phát triển của Tập đoàn. Có thể nói, công tác tổ chức cán bộ của Tập đoàn đã đạt được một số kết quả nổi bật sau:
Một là, mô hình tổ chức sản xuất ngày càng được hoàn thiện hơn. Tập đoàn đã sắp xếp mô hình tổ chức sản xuất theo hướng chuyên môn hóa để phát huy hiệu quả của đầu tư phát triển. Ví dụ như đã tách sản xuất than thành các công đoạn: sản xuất – chế biến – tiêu thụ đầu nguồn – tiêu thụ cuối nguồn, từ đó chỉ đạo mỗi đơn vị chỉ tập trung vào một công đoạn sản xuất, tăng cường công tác quản lý; hoặc như phân công việc sản xuất các sản phẩm cơ khí chủ chốt cho các công ty cơ khí để tăng cường đầu tư sâu vào cải tiến, nghiên cứu, chế tạo; thoái vốn và xử lý các dự án không hiệu quả… Từ mô hình sản xuất, Tập đoàn đã chỉ đạo xây dựng và ban hành các quy chế quản lý nội bộ, tạo hành lang pháp lý và định hướng cho các hoạt động của công ty mẹ đến các công ty con. Những đổi mới đó đã khắc phục được tình trạng trì trệ, thiếu năng động là những yếu điểm cố hữu của một doanh nghiệp được phát triển từ doanh nghiệp Nhà nước, góp phần quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị hàng năm của đơn vị và Tập đoàn.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng sự phát triển của Tập đoàn: Tập đoàn đã tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là chú trọng đào tạo các chuyên ngành mới của Tập đoàn như điện lực, luyện kim… Cán bộ trong quy hoạch đã được tăng cường bồi dưỡng ở trong nước và ngoài nước. Vì thế, trong những năm qua, công tác cán bộ đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhất là khi mở rộng sản xuất mới, phát triển các dự án mới.
Những năm qua, dù trong lúc thuận lợi hay những lúc khó khăn do tác động của nền kinh tế trong nước và quốc tế nhưng Tập đoàn phát triển ổn định, giữ vững được vai trò của một doanh nghiệp Nhà nước được giao nhiệm vụ đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Trong năm qua, lãnh đạo Tập đoàn, các đơn vị đã xác định đúng mục tiêu, chỉ đạo sát sao và kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, giải quyết các khó khăn trong việc xây dựng mỏ. Công nhân, thợ lò nỗ lực cố gắng để dần nâng cao năng suất tốc độ đào lò, xây dựng mỏ. Bên cạnh đó, Tập đoàn đã cải thiện đáng kể điều kiện đi lại cho công nhân mỏ trong giếng nghiêng. Thông qua việc đào giếng đứng tại mỏ hầm lò Núi Béo khẳng định Vinacomin với sự kết hợp của các đối tác nước ngoài có thể tự thực hiện việc thi công các giếng đứng. Một số mỏ đã thực hiện vượt mức kế hoạch đào lò XDCB các dự án mỏ trong năm 2012: Uông Bí (100,4%); Vàng Danh (101,6%), Hòn Gai (105,3%); TCT Đông Bắc (105,8%); Mông Dương (107,1%); Quang Hanh (108,7%).
Trong thời gian tới, công tác này cần phải đẩy mạnh ở những điểm: Các chủ mỏ phải quan tâm hơn đến công tác XDM; đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa các công đoạn sản xuất trong dây chuyền đào lò; đồng bộ hóa thiết bị; tăng cường chống lò bằng các loại hình vì neo; xây dựng các tổ đội đào lò nhanh với dây chuyền thiết bị đồng bộ và tổ chức lao động hợp lý…
Nói chung, công tác xây dựng mỏ đóng vai trò rất quan trọng, quyết định sự phát triển của Vinacomin. Nguồn thu chính của Vinacomin vẫn phải dựa vào than là chính, muốn tăng sản lượng thì phải có các mỏ mới và mỏ cải tạo được xây dựng theo đúng tiến độ.
Tôi là người làm công tác an toàn. Có lẽ do nghề nghiệp nên trong công tác chủ yếu là thiên hướng về hành động. Trước thềm năm mới tôi muốn chia sẻ suy nghĩ của mình rằng: Tất cả chúng ta hãy hành động, hãy làm những gì có thể vì một mục tiêu chung. Trong công tác an toàn, muốn nói gì thì nói nhưng nếu còn để xảy ra sự cố, tai nạn trong sản xuất, thì có nghĩa chúng ta còn khiếm khuyết ở đâu đó, cần thẳng thắn nhìn vào khuyết điểm để khắc phục.
Tuyên truyền là tốt nhưng cũng không vì thế mà đưa ra quá nhiều khẩu hiệu, nhất là những khẩu hiệu nhiều chữ, chữ nhỏ li ti trên đường đi, không ai đọc được, hoặc có đọc lại gây mất an toàn giao thông. Tôi không đồng ý với những khẩu hiệu có những cụm từ “Đổi mới” ở một khía cạnh… Đổi mới những cái lạc hậu là tốt, nhưng không có nghĩa là tất cả những gì chúng ta hiện có là không tốt, là lạc hậu, cần đổi mới. Mà ngược lại, chúng ta cần kế thừa, học tập những gì tốt đẹp, những tinh hoa của cha anh, của những người đi trước. Chẳng hạn như Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nói nôm na có nghĩa là ta vươn lên tiên tiến nhưng không để mất mình, không để mất đi cái hay của mình.
Gần đây chúng ta cũng có nhiều khẩu hiệu, tuyên truyền nhiều nhưng hiệu quả không cao. Vậy chúng ta hãy hướng vào những gì có hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Hãy làm sao để mọi người cùng hành động và làm ngay những gì hôm nay nếu có thể.
2012 là một năm đặc biệt khó khăn với TCT Khoáng sản: Giá cả đầu vào tăng cao, các loại thuế, phí, lệ phí tại các địa phương biến động tăng mạnh làm tăng chi phí giá thành. Bên cạnh đó, công tác tiêu thụ khoáng sản gặp khó khăn do thị trường trong nước thu hẹp, việc xuất khẩu hạn chế do thuế xuất khẩu cao (đồng tấm 20%, kẽm thỏi, thiếc thỏi 10%) hoặc không được phép xuất khẩu theo quy định của chính phủ (tinh quặng sắt), đồng thời giá bán một số sản phẩm giảm mạnh như: kẽm thỏi giảm 15%, tinh quặng sắt giảm 17%, thiếc thỏi giảm 20 %, đồng tấm giảm 4% . Với giá các loại khoáng sản giảm như trên, cùng sản lượng như năm 2011, nhưng doanh thu năm nay giảm khoảng 170 tỷ đồng. Có nhiều thời điểm tổng giá trị tồn kho trên 1.500 tỷ đồng, tình hình tài chính gặp khó khăn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD của TCT.
Đối diện với những khó khăn trên, lãnh đạo TCT đã đề ra nhiều giải pháp quyết liệt để vượt “bão”: linh hoạt trong điều hành sản xuất; tập trung triển khai thực hiện các biện pháp tiết giảm chi phí; xây dựng kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phù hợp để hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến công tác “yên dân”. Khó khăn trong năm 2012 đã ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống người lao động, lương bị cắt giảm, các chế độ phúc lợi cũng bị giảm theo. Trước tình hình đó, toàn bộ hệ thống chính trị trong TCT cùng vào cuộc thực hiện tuyên truyền tới toàn thể CNVC người lao động nắm bắt tình hình khó khăn chung của đơn vị để từ đó có sự đồng cảm, chia sẻ, đoàn kết cùng nhau vượt qua giai đoạn khó khăn. Hàng quý, chuyên môn phối hợp với Công đoàn đến các đơn vị thành viên trong TCT để gặp gỡ, đối thoại với người lao động, đó cũng là cơ hội để chúng tôi hiểu thêm tâm tư, tình cảm của anh em. Trong năm qua, Vimico không hề có đơn thư vượt cấp, không có sự chia rẽ nội bộ, trên dưới đồng lòng. 2012 thực sự là một năm khó khăn với Vimico nhưng với sự ủng hộ, hậu thuẫn của đông đảo người lao động, chúng tôi đang từng bước khắc phục các khó khăn đó, đón một 2013 mới với nhiều hy vọng và kỳ vọng.
Công tác khoán quản trị, tiết kiệm chi phí sản xuất đã được Công ty than Vàng Danh triển khai thực hiện từ nhiều năm nay và đã mang lại cho Công ty những hiệu quả thiết thực. Năm 2011, Công ty đã tiết kiệm chi phí được 14,8 tỷ đồng, tăng 39% so với năm trước. Đặc biệt trong năm 2012 – năm có vô vàn khó khăn, Công ty tiếp tục tiết giảm được khoảng 46 tỷ đồng. Để có được con số đó, Ban lãnh đạo và tập thể CNCB Công ty đã thực hành tốt 6 giải pháp cơ bản như: tiếp tục mở rộng áp dụng công nghệ đang áp dụng có năng suất, hiệu quả cao như chống lò bằng giá khung ZH, lò chợ cơ giới hoá đồng bộ… và đẩy mạnh áp dụng công nghệ mới phù hợp với điều kiện khoáng sàng của Công ty; tăng cường quản lý tài nguyên, giảm tỷ lệ tổn thất than trong khai thác bằng các biện pháp kỹ thuật công nghệ; kiểm soát chặt chẽ chất lượng, khối lượng than từ trong vỉa đến khi khai thác, sàng tuyển, bốc xếp tiêu thụ; phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu công nghệ, định mức kinh tế kỹ thuật bằng hoặc tốt hơn các chỉ tiêu định mức Tập đoàn giao. Trong công tác điều hành khoán quản trị chi phí, Than Vàng Danh siết chặt quản trị chi phí trong tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, xây dựng kế hoạch điều hành, kiểm soát chi phí hàng tuần, hàng quý, hàng tháng. Trong năm, Công ty tiếp tục hoàn thiện quy chế khoán, quản theo hệ thống từ Công ty đến các phân xưởng sản xuất cho phù hợp với điều kiện thực tế, theo hướng gắn trách nhiệm của người lao động với công việc được giao, nâng cao ý thức tiết kiệm trong sản xuất; đồng thời hoàn thiện hệ thống định mức vật tư, vật liệu, các biện pháp quản lý vật tư, thiết bị, sử dụng tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu trong sản xuất; đổi mới phương thức khoán, tăng cường khoán sâu, khoán rộng, khoán giá thành công đoạn cho tất cả các đơn vị sản xuất; nâng cao chất lượng làm việc của các hội đồng nghiệm thu, quyết toán vật tư; quyết toán khoán; tăng cường công tác thu hồi, sửa chữa phục hồi, tái chế vật tư thiết bị để tái đưa trở lại sản xuất, giảm chi phí đầu vào. Công tác sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất cũng được Công ty phát động rộng khắp đến tất cả các đơn vị.
Về công tác tổ chức sản xuất, Công ty tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, nhằm duy trì ổn định sản xuất; thực hiện tổ chức sản xuất hợp lý, khoa học theo hướng tăng số người làm việc chính, trực tiếp để nâng cao sản lượng; quản lý tốt ngày công, giờ công để tăng năng suất lao động > 5%. Quan điểm chỉ đạo, điều hành sản xuất của Công ty là “Mềm – Linh hoạt – Quyết liệt” phù hợp với điều kiện sản xuất của từng đơn vị. Công ty cũng tiến hành cắt giảm đầu tư. Bên cạnh đó, Công ty huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, các nguồn tiền nhàn rỗi; đưa vào vận hành phần mềm Portal office để giảm thời gian hội họp, chi phí in ấn tài liệu, tiết kiệm thời gian công tác.
Có thể nói, công tác khoán, quản trị và tiết giảm chi phí chính là chìa khoá nâng cao hiệu quả SXKD của Than Vàng Danh. Là mỏ than hầm lò lớn của Tập đoàn với số CNCB đông, nhờ làm tốt công tác khoán, quản trị và tiết giảm chi phí, Công ty đã duy trì sản xuất ổn định, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động trong năm 2012 đầy khó khăn. Vì thế, Công ty tiếp tục triển khai quyết liệt công tác này để chủ động hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ năm 2013 – dự báo là suy thoái kinh tế còn diễn biến phức tạp.
Suy thoái kinh tế tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khối các đơn vị làm thương mại, dịch vụ; trong đó có Coalimex. Tuy nhiên, với sự đồng lòng, quyết tâm của tập thể CNCB Công ty, Coalimex đã “vượt bão” thành công, ổn định được việc làm và thu nhập cho người lao động dù rằng doanh thu, lợi nhuận có giảm đi đôi chút.
Là một trong những kênh tiêu thụ than của Tập đoàn, thời gian qua, Coalimex luôn bám sát chỉ đạo điều hành của Tập đoàn, cũng như các ban chuyên môn. Cán bộ làm công tác tiêu thụ của Công ty còn thường xuyên chủ động tìm hiểu, nghiên cứu thị trường và phối hợp với các ban chuyên môn để xác định nhu cầu tiêu thụ than cả về số lượng, chất lượng, chủng loại than; từ đó hoạch định kế hoạch tiêu thụ cụ thể, phù hợp. Làm thị trường than là cả một quá trình, bởi than là mặt hàng đặc biệt, liên quan đến quy định, chính sách của các cấp chứ không riêng doanh nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi phải có kế hoạch dài hạn. Nhờ chủ động trong công tác thị trường nên Coalimex đã hoàn thành tốt kế hoạch xuất khẩu 2,3 triệu tấn than mà Tập đoàn giao từ đầu năm.
Song song với đó, thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Tập đoàn giao, Công ty tiếp tục triển khai công tác nhập than như một bước tập dượt quan trọng để chuẩn bị sẵn sàng cho việc tăng tốc theo yêu cầu của Tập đoàn tới đây. Năm 2012, Công ty nhập khẩu khoảng trên 130.000 tấn than từ Indonesia với các chủng loại và các chỉ tiêu kỹ thuật theo yêu cầu của khách hàng. Hiện tại, Coalimex đã cấp than cho Dự án alumin của Tập đoàn. Công ty xác định, nhập than là nhiệm vụ chiến lược nhằm đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế quốc dân trong thời gian tới. Do vậy, ngay từ ban đầu cần phải được triển khai một cách bài bản và xây dựng được mạng lưới thị trường vững chắc tương tự như khi làm nhiệm vụ xuất khẩu than.
Năm 2013 và những năm tiếp theo có thể còn tiếp tục khó khăn hơn nữa. Do đó, không có cách nào khác là chúng ta phải chủ động, linh hoạt trong sản suất kinh doanh. Coalimex sẽ giữ ổn định tổ chức, số lượng công nhân cán bộ hiện nay, khoảng trên 200 người, thay vào đó, Công ty phấn đấu tăng năng suất lao động. “Vai trò của người nhạc trưởng trong một dàn nhạc không phải là thay nhạc công mà vấn đề là phối hợp giữa các nốt nhạc ra sao để có được bản nhạc hay”. Thực tế là, nhờ phát huy được sức mạnh tập thể, dù khó khăn, trong Công ty vẫn xuất hiện nhiều phòng ban xuất sắc, đóng góp vào kết quả chung của đơn vị, điển hình như tập thể Phòng 3, Phòng 1, Phòng 4, Phòng Xuất than – Chi nhánh Quảng Ninh…. Mục tiêu của Coalimex thời gian tới là giữ phong độ, duy trì được kim ngạch xuất khẩu ở mức 300-400 triệu USD/năm mà Công ty đã và đang thực hiện được từ nhiều năm nay.
Cuối tháng 12 vừa rồi, khi tham dự cuộc họp giao ban cuối năm của hơn 20 viện khoa học trực thuộc Bộ Công thương, tôi được nghe câu chuyện về hoạt động nghiên cứu khoa học và dịch vụ khoa học công nghệ của Viện Dầu khí Việt Nam trực thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Năm 2012, họ đạt gần 650 tỷ đồng doanh thu. Trong đó, doanh thu từ nghiên cứu khoa học là 224 tỷ; doanh thu từ dịch vụ KHCN đạt 293 tỷ, doanh thu dịch vụ khác đạt 128 tỷ đồng. Tôi ấn tượng với số vốn chủ sở hữu của Viện Dầu khí, hơn 800 tỷ đồng! Tôi càng ấn tượng hơn về sự chủ động quan tâm, đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học ở đơn vị bạn – Tập đoàn Dầu khí Quốc gia VN.
Vui mừng mà nói, Viện Khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin cũng luôn được Bộ Công thương ghi nhận, đánh giá là một trong 3 viện đứng đầu Bộ về năng lực nghiên cứu cũng như thành tích đóng góp vào sự phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng nước ta. Tuy nhiên, nhìn sang đơn vị bạn… ?! Vẫn biết, mọi sự so sánh đều khập khiễng!
Như một đồng chí nguyên là Phó Tổng giám đốc Tập đoàn đã từng nói, để xây dựng thành công thương hiệu Vinacomin, ngoài sản xuất chính là than – khoáng sản, còn có các đơn vị thuộc lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, trong đó có cả phần đóng góp của các đơn vị sự nghiệp như khối Trường, Viện, hay như Tạp chí – cơ quan ngôn luận của Tập đoàn…
Do lĩnh vực hoạt động đặc thù, nên sản phẩm cũng đặc thù, đôi khi là vô hình, nhưng hiệu quả là điều chắc chắn. Đặc biệt, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, một công trình hay một đề tài có khi kéo dài nhiều năm, đòi hỏi đầu tư lớn và cũng cần có phản hồi từ thực tế thử nghiệm, cần ý kiến chỉ đạo, góp ý để tiếp tục hoàn thiện, chứ không thể “cầm, nắm được sản phẩm trong một sớm, một chiều”.
Với Viện chúng tôi, quan trọng nhất là thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Tập đoàn giao, là thực hiện trách nhiệm của người làm nghiên cứu khoa học vì sự phát triển bền vững của Vinacomin trong tương lai. Cùng với đó là đảm bảo đời sống, thu nhập cho lực lượng nhân sự cũng rất “đặc thù” trong bối cảnh “chảy máu chất xám” đang được xem là vấn đề nổi cộm ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Ai cũng biết, thị trường bất động sản năm qua rơi vào tình trạng khó khăn chưa từng có do suy thoái kinh tế toàn cầu và của Việt Nam. Nhiều công ty nói chung và bất động sản nói riêng lún sâu trong nợ nần và phá sản. Trước tình hình đó, Công ty chúng tôi vẫn cố gắng hoàn thành kế hoạch được Tập đoàn giao; đồng thời tập trung vào nhiệm vụ chính được giao là phát triển nhà và hạ tầng, trong đó xây dựng nhà ở công nhân là nhiệm vụ trọng tâm. Vì, chỉ tính riêng tại vùng than Quảng Ninh, hàng vạn công nhân ngành Than – Khoáng sản đang có nhu cầu về nhà ở. Xây dựng nhà ở công nhân giúp cho người lao động có được cuộc sống ổn định, đồng thời nó phù hợp với các chính sách quyết liệt của Chính phủ và các bộ ngành nhằm tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, đặc biệt là nhà ở cho người lao động và nhà ở xã hội…
Hiện nay vẫn tồn tại một số quan điểm chưa chuẩn về tái cấu trúc doanh nghiệp. Trong đó, có nhiều người vẫn nghĩ rằng, tái cấu trúc doanh nghiệp đồng nghĩa với việc cổ phần hóa hoặc đại chúng hóa, cắt bỏ, sáp nhập… Tái cấu trúc doanh nghiệp có thể giúp doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn. Nhưng nếu không đúng cách có thể khiến doanh nghiệp phá sản nhanh chóng hoặc phải mất nhiều năm lòng vòng tìm lối thoát.
Theo tôi, tái cấu trúc doanh nghiệp là cần thiết bởi chính trong hoạt động của mình, đơn vị nào cũng bộc lộ ra những điểm yếu nhất định, cần phải khắc phục. Cần căn cứ từ chính thực tiễn hoạt động mà đặt ra lộ trình tái cấu trúc phù hợp cho mình. Ví dụ như tại một đơn vị nhỏ như Công ty CP than Sông Hồng, chúng tôi đã tái cấu trúc mình bằng cách xốc lại đội hình, đánh giá lại năng lực của các đối tác, bạn hàng… để tinh gọn đội ngũ, tìm kiếm các đối tác, bạn hàng thật sự có tiềm năng.
Bên cạnh đó, thành công của tái cấu trúc doanh nghiệp phụ thuộc vào nỗ lực và cam kết triển khai của doanh nghiệp bên cạnh những điều kiện khách quan khác. Tái cấu trúc doanh nghiệp phải mang tính tổng thể và đồng bộ, có sự tương tác giữa các khía cạnh khác nhau trong quản lý điều hành doanh nghiệp. Và đặc biệt, không nên thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp một cách quá máy móc, cứng nhắc, cứ nhất thiết phải sắp xếp, cắt bỏ, sáp nhập… trong khi bộ máy hoạt động đang nhịp nhàng, phù hợp, hiệu quả…
Hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn là phải thực hiện tốt mục tiêu xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, gồm bốn nội dung cơ bản là: đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý doanh nghiệp có hiệu quả; tuyên truyền, giáo dục, vận động nắm được chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và mục tiêu, nhiệm vụ, các quy chế, quy định của đơn vị; kiện toàn tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động công đoàn.
Để thực hiện được mục tiêu này, Công đoàn Công ty than Hạ Long luôn chủ động và thống nhất với người sử dụng lao động trong việc xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp hoạt động; chủ động tham gia xây dựng các quy chế, quy định của đơn vị có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp chính đáng của người lao động; tích cực tham gia thực hiện việc sắp xếp, đổi mới tổ chức sản xuất nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả, cải thiện điều kiện làm việc và đời sống của người lao động; tích cực tuyên truyền, vận động, giáo dục người lao động rèn luyện tác phong công nghiệp, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy lao động, tích cực hoạc tập nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp; thúc đẩy thực hiện quy chế dân chủ, tổ chức tốt hoạt động đối thoại để tạo sự hiểu biết, chia sẻ và trách nhiệm cùng nhau tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong quan hệ lao động; đặc biệt là phải tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn, thu hút được toàn thể đoàn viên và người lao động hăng hái tham gia hoạt động và thực hiện mục tiêu xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh.
Nhiệm vụ xuyên suốt nhiệm kỳ tới của Công đoàn Công ty than Hạ Long là: xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ; phối hợp với cơ quan quản lý điều hành và các đoàn thể xây dựng Công ty đạt chuẩn văn hóa theo chỉ đạo của Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam…
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/chinh-khach-vinacomin-chia-se-truoc-them-xuan-moi-4003.htm” button=”Theo vinacomin”]