Kết quả thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2013
Bước vào năm 2013, trước những khó khăn, thách thức do tác động kéo dài của suy giảm kinh tế thế giới và trong nước thời gian qua cũng như những khó khăn trong nội bộ Tập đoàn, căn cứ vào chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Tập đoàn cùng các đơn vị thành viên đã chủ động kịp thời đề ra các giải pháp đồng bộ, sâu sát, cụ thể và tích cực triển khai thực hiện kế hoạch phối hợp kinh doanh năm 2013 ngay từ đầu năm trong từng tháng, quý. Đánh giá chung, một năm đầy sóng gió, Tập đoàn đã vượt khó thành công với kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính dự kiến đạt được như sau:
* Về sản xuất kinh doanh
– Doanh thu: đạt 97,7 ngàn tỷ đồng, bằng thực hiện năm 2012; trong đó, doanh thu sản xuất than ước đạt 55,5 ngàn tỷ đồng, doanh thu sản xuất điện trên 9,4 ngàn tỷ đồng, gần gấp 2 lần năm 2012.
– Lãi trước thuế: dự kiến đạt trên 2,5 ngàn tỷ đồng, bằng khoảng 80% năm 2012.
– Nộp ngân sách nhà nước: 11,5 ngàn tỷ đồng, bằng 92% năm 2012.
– Lao động và tiền lương: lao động bình quân 138 ngàn người, trong đó sản xuất than 93 ngàn người. Tiền lương bình quân: 7,7 triệu đồng/người/tháng, tương đương năm 2012, trong đó sản xuất than 8,1 triệu đồng/người/tháng.
– Sản xuất than: Than nguyên khai ước thực hiện 42,6 triệu tấn, bằng 96% năm 2012; than sạch: 39,5 triệu tấn, bằng 97% năm 2012; than tiêu thụ 39,1 triệu tấn, tương đương năm 2012, trong đó: xuất khẩu 12,1 triệu tấn, bằng 83% năm 2012, trong nước 27 triệu tấn, bằng 110% năm 2012.
– Sản xuất khoáng sản – luyện kim: Sản lượng tinh quặng đồng (24% Cu) 47.000 tấn, bằng 102% năm 2012; tiêu thụ: đồng tấm 11.000 tấn, bằng 178% năm 2012; kẽm thỏi 8.500 tấn, bằng 93% năm 2012; thiếc thỏi 731 tấn, bằng 92% năm 2012; sản xuất quặng sắt: 361 ngàn tấn, bằng 181% năm 2012. Sản lượng vàng, bạc đều vượt năm 2012. Quặng cromit tiêu thụ 4.688 tấn, bằng 43,8% năm 2012. Đặc biệt, sản xuất alumin trên 200 ngàn tấn, tiêu thụ 165 ngàn tấn (trong đó xuất khẩu 161 ngàn tấn).
– Sản xuất điện: sản xuất và tiêu thụ 8.500 triệu kWh, bằng 136% năm 2012.
– Sản xuất cơ khí: chế tạo máy xúc đá hầm lò 16 chiếc, đầu tàu điện 19 chiếc, v.v.; Sửa chữa 110 máy khoan, xúc, gạt và 322 xe ô tô các loại. Chế tạo phụ tùng máy khai thác, cột chống thuỷ lực, giá chống, uốn thép vì chống lò, răng gầu EKG các loại, máng cào, xe goòng các loại đáp ứng nhu cầu sản xuất.
– Sản xuất và kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp: Sản xuất 58.665 tấn thuốc nổ các loại, bằng năm 2012, đặc biệt đã đưa dây chuyền sản xuất thuốc nổ nhũ tương hầm lò 2 vào hoạt động đạt 600 tấn; cung ứng 97 ngàn tấn thuốc nổ, bằng 96,4% năm 2012.
Bước vào năm 2013, trước những khó khăn, thách thức do tác động kéo dài của suy giảm kinh tế thế giới và trong nước thời gian qua cũng như những khó khăn trong nội bộ Tập đoàn, căn cứ vào chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Tập đoàn cùng các đơn vị thành viên đã chủ động kịp thời đề ra các giải pháp đồng bộ, sâu sát, cụ thể và tích cực triển khai thực hiện kế hoạch phối hợp kinh doanh năm 2013 ngay từ đầu năm trong từng tháng, quý. Đánh giá chung, một năm đầy sóng gió, Tập đoàn đã vượt khó thành công với kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính dự kiến đạt được như sau:
* Về sản xuất kinh doanh
– Doanh thu: đạt 97,7 ngàn tỷ đồng, bằng thực hiện năm 2012; trong đó, doanh thu sản xuất than ước đạt 55,5 ngàn tỷ đồng, doanh thu sản xuất điện trên 9,4 ngàn tỷ đồng, gần gấp 2 lần năm 2012.
– Lãi trước thuế: dự kiến đạt trên 2,5 ngàn tỷ đồng, bằng khoảng 80% năm 2012.
– Nộp ngân sách nhà nước: 11,5 ngàn tỷ đồng, bằng 92% năm 2012.
– Lao động và tiền lương: lao động bình quân 138 ngàn người, trong đó sản xuất than 93 ngàn người. Tiền lương bình quân: 7,7 triệu đồng/người/tháng, tương đương năm 2012, trong đó sản xuất than 8,1 triệu đồng/người/tháng.
– Sản xuất than: Than nguyên khai ước thực hiện 42,6 triệu tấn, bằng 96% năm 2012; than sạch: 39,5 triệu tấn, bằng 97% năm 2012; than tiêu thụ 39,1 triệu tấn, tương đương năm 2012, trong đó: xuất khẩu 12,1 triệu tấn, bằng 83% năm 2012, trong nước 27 triệu tấn, bằng 110% năm 2012.
– Sản xuất khoáng sản – luyện kim: Sản lượng tinh quặng đồng (24% Cu) 47.000 tấn, bằng 102% năm 2012; tiêu thụ: đồng tấm 11.000 tấn, bằng 178% năm 2012; kẽm thỏi 8.500 tấn, bằng 93% năm 2012; thiếc thỏi 731 tấn, bằng 92% năm 2012; sản xuất quặng sắt: 361 ngàn tấn, bằng 181% năm 2012. Sản lượng vàng, bạc đều vượt năm 2012. Quặng cromit tiêu thụ 4.688 tấn, bằng 43,8% năm 2012. Đặc biệt, sản xuất alumin trên 200 ngàn tấn, tiêu thụ 165 ngàn tấn (trong đó xuất khẩu 161 ngàn tấn).
– Sản xuất điện: sản xuất và tiêu thụ 8.500 triệu kWh, bằng 136% năm 2012.
– Sản xuất cơ khí: chế tạo máy xúc đá hầm lò 16 chiếc, đầu tàu điện 19 chiếc, v.v.; Sửa chữa 110 máy khoan, xúc, gạt và 322 xe ô tô các loại. Chế tạo phụ tùng máy khai thác, cột chống thuỷ lực, giá chống, uốn thép vì chống lò, răng gầu EKG các loại, máng cào, xe goòng các loại đáp ứng nhu cầu sản xuất.
– Sản xuất và kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp: Sản xuất 58.665 tấn thuốc nổ các loại, bằng năm 2012, đặc biệt đã đưa dây chuyền sản xuất thuốc nổ nhũ tương hầm lò 2 vào hoạt động đạt 600 tấn; cung ứng 97 ngàn tấn thuốc nổ, bằng 96,4% năm 2012.
* Về thực hiện đầu tư XDCB: Giá trị thực hiện năm 2013 dự kiến đạt 21,3 ngàn tỷ đồng, bằng 106,5% năm 2012. Chủ yếu là đầu tư thực hiện các dự án khai thác than hầm lò mới, 2 dự án chế biến alumin và một số dự án khoáng sản – luyện kim.
* Về công tác bảo vệ môi trường: Đã hoàn thành 8 trạm xử lý nước thải và 2 trạm rửa xe, đang triển khai xây dựng thêm 9 trạm xử lý nước thải ở các mỏ than và nhiều công trình, dự án môi trường khác ở vùng mỏ Quảng Ninh.
* Về thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp và đổi mới quản lý kinh doanh:
– Công tác tái cơ cấu doanh nghiệp: Đã tích cực triển khai thực hiện Đề án đổi mới, tái cơ cấu Tập đoàn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 314/QĐ-TTg ngày 07/2/2013, trong đó chuyển đổi xong 6 công ty TNHH MTV sản xuất than, triển khai bàn giao Tổng công ty Đông Bắc về Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý, triển khai các thủ tục cổ phần hóa 3 doanh nghiệp và đang thực hiện tái cơ cấu các đơn vị khác, tích cực thực hiện việc thoái vốn đầu tư ở các đơn vị ngoài ngành.
– Công tác tăng cường và đổi mới quản lý kinh doanh:
– Ban hành nhiều văn bản và chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác điều hành sản xuất phù hợp với tình hình thị trường tiêu thụ, tăng cường quản lý kỹ thuật, quản lý đầu tư, quản trị chi phí, quản lý sản phẩm và phối hợp kinh doanh nhằm mục tiêu tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
– Tăng cường công tác tài chính, thu xếp vốn đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư lớn của Tập đoàn. Duy trì công tác đánh giá hệ số tín nhiệm với hai tổ chức đánh giá có uy tín quốc tế Moody’s và S&P.
– Tăng cường các giải pháp bảo vệ than đầu và cuối nguồn.
Xét trong bối cảnh năm vừa qua nền kinh tế và nội bộ Tập đoàn có nhiều khó khăn, thách thức trên nhiều mặt, có thể nói những kết quả sản xuất kinh doanh của toàn Tập đoàn đạt được trong năm 2013 có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng nhu cầu than, một số sản phẩm khoáng sản và vật liệu nổ công nghiệp của nền kinh tế cũng như góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; đảm bảo việc làm và thu nhập ổn định cho gần 14 vạn lao động; từng bước cải thiện môi trường vùng mỏ.
Mục tiêu, nhiệm vụ, khó khăn, thách thức và các giải pháp thực hiện kế hoạch năm 2014
Năm 2014, nhân dịp chào mừng kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Trung ương Đảng và Chính phủ, cán bộ, công nhân toàn Tập đoàn TKV phát huy bài học tổng hợp “đánh chắc, tiến chắc”, “huy động sức mạnh tổng hợp”, “hiểu ta, hiểu địch”, “có chiến lược, chiến thuật hợp lý”, “luôn sáng tạo, đổi mới”, “nắm chắc thời cơ, nắm chắc thế trận”, “phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực”, v.v. đã đưa đến Chiến thắng “Lừng lẫy Năm châu, Chấn động Địa cầu” 60 năm trước đây, để quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kế hoạch năm 2014, tiến lên tầm cao mới và phát triển bền vững Tập đoàn.
Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát kế hoạch năm 2014 của Tập đoàn là: Duy trì sản xuất ổn định, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới cơ chế quản trị phù hợp; tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm, đảm bảo tăng trưởng hợp lý, bền vững; cải thiện đời sống, điều kiện làm việc và phúc lợi cho người lao động, đặc biệt là đội ngũ thợ lò.
Mục tiêu chung là: “An toàn – Đổi mới – Hiệu quả – Phát triển”.
* Các nhiệm vụ chính
– Tổng doanh thu: 105.520 tỷ đồng; trong đó: Than 53.036 tỷ đồng; Khoáng sản 6.696 tỷ đồng; Điện lực 10.300 tỷ đồng; Vật liệu nổ công nghiệp 3.453 tỷ đồng; Cơ khí 2.922 tỷ đồng; SXKD khác 29.111 tỷ đồng.
– Lãi trước thuế: 2.000 tỷ đồng, phấn đấu đạt mức cao hơn.
– Tiền lương: bình quân chung toàn Tập đoàn: 7,9 triệu đồng/người/tháng, trong đó sản xuất than 8,2 triệu đồng/người/tháng.
– Sản xuất than: Than tiêu thụ 35 triệu tấn; than nguyên khai 37,7 triệu tấn; than sạch 34,3 triệu tấn; bóc đất đá 193 triệu m3; đào lò 297 km.
– Khoáng sản: ngoài các sản phẩm đồng tấm, kẽm thỏi, thiếc … của Tổng công ty Khoáng sản, có thêm: alumin 540 ngàn tấn, FeroChrome 8.000 tấn, quặng sắt 1,0 triệu tấn.
– Điện lực: Sản lượng phát điện thương mại 8,5 tỷ KWh.
– Vật liệu nổ công nghiệp: Sản xuất 58.800 tấn các loại; cung ứng 98.000 tấn; dự kiến sẽ ra sản phẩm Nitrat Amon: 8.000 tấn.
– Sản xuất cơ khí: Sản phẩm chủ yếu: máy xúc đá hầm lò 15 cái; đầu tàu điện 5T-12T 24 cái; cán thép chống lò 20 ngàn tấn; gia công thép vì lò 75,5 ngàn tấn; lưới thép nóc lò 5 ngàn tấn; máng cào các loại 240 chiếc; sửa chữa xe trung, đại xa 297 chiếc, máy khoan+xúc+gạt 111 chiếc, đầu tàu điện các loại 46 cái.
– Sản xuất vật liệu xây dựng và kinh doanh khác: xi măng 2,2 triệu tấn; đá các loại đáp ứng đủ nhu cầu cho các nhà máy điện; dầu nhờn 4,5 triệu lít. Các hoạt động thương mại, dịch vụ bảo đảm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của người lao động.
– Đầu tư XDCB: dự kiến 32,3 ngàn tỷ đồng. Tập trung thực hiện các dự án chính trong lĩnh vực khai thác than, khoáng sản, điện, VLNCN, cơ khí và hạ tầng vùng than.
* Những khó khăn, thách thức đối với Tập đoàn TKV
Trong năm 2014 và thời gian tới, đối với Tập đoàn TKV sẽ gặp những khó khăn, thách thức chính sau đây:
1) Tài nguyên khoáng sản là một trong hai nguồn lực nền tảng để Tập đoàn “đi lên giàu mạnh”. Hiện nay nguồn lực này có những bất lợi cho việc đầu tư phát triển mỏ, thu hút lao động và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cụ thể là các mỏ than có tài nguyên màu mỡ, điều kiện khai thác – kinh doanh thuận lợi ngày càng cạn kiệt trữ lượng, phải chuyển dần sang khai thác các phần mỏ, mỏ, vùng mỏ có điều kiện khai thác khó khăn, phức tạp. Tài nguyên đã thăm dò còn ít và kết quả thăm dò có mức độ chính xác thấp. Việc cấp phép thăm dò và khai thác gặp rất nhiều vướng mắc. Đa phần các mỏ khoáng sản (ngoài than) phân bố rải rác ở vùng miền núi, trình độ phát triển KT-XH, trình độ dân trí thấp, kết cấu hạ tầng chưa phát triển, khó tuyển dụng lao động có chất lượng cao; hầu hết các mỏ có trữ lượng nhỏ, không đủ điều kiện để đầu tư cơ sở chế biến quy mô lớn, đảm bảo hiệu quả.
2) Nhu cầu vốn đầu tư tăng cao, nguồn vốn chủ sở hữu của Tập đoàn rất hạn chế, trong khi hiệu quả kinh doanh giảm và tình hình tài chính cũng như khả năng huy động vốn rất khó khăn.
Tổng mức đầu tư phát triển than theo quy hoạch được duyệt cho giai đoạn 2011- 2020 khoảng 317.736 tỷ đồng (bình quân 31.774 tỷ đồng/năm). Ngoài ra, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển khoáng sản, điện, vật liệu nổ công nghiệp và một số ngành kinh doanh khác của Tập đoàn cũng rất lớn, chỉ tính đến năm 2020 đã lên đến hàng mấy chục ngàn tỷ đồng.
Vốn chủ sở hữu của Tập đoàn hiện có khoảng 32 ngàn tỷ đồng. Việc huy động vốn trong nước rất khó khăn do nguồn vốn rất hạn chế; việc huy động vốn trên thị trường quốc tế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên ngày càng khó khăn hơn và với lãi suất cao hơn. Trong khi hiệu quả kinh doanh, nhất là than, khoáng sản suy giảm và tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn, do: (1) Giá thành than ngày càng tăng cao (thậm chí có một số mỏ có giá thành cao hơn giá than xuất, nhập khẩu). Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện khai thác khó khăn hơn và các loại thuế, phí ngày càng tăng, chỉ riêng khoản tiền cấp quyền khai thác đã lên đến hàng ngàn tỉ đồng/năm; (2) Giá và sản lượng than xuất khẩu giảm, nên khả năng có lãi để tích lũy và tái đầu tư là rất hạn chế; (3) Một số dự án lớn than, điện, khoáng sản, v.v. hoàn thành đi vào hoạt động chưa phát huy hết công suất nên giá thành cao; (4) Trách nhiệm xã hội đặt ra đối với các doanh nghiệp mỏ đóng trên địa bàn ngày càng nặng nề, phức tạp, nhất là trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hóa bản địa, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo; (5) Theo quy định mới thì lợi nhuận sau thuế của Công ty mẹ Tập đoàn và các công ty mẹ của các tổng công ty con TNHH MTV sau khi trích lập quỹ đầu tư phát triển (30%), quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi theo quy định hiện hành thì phần lợi nhuận còn lại phải nộp ngân sách nhà nước; ngoài ra, cổ tức của phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần cũng phải nộp ngân sách nhà nước.
3) An toàn lao động trong khai thác than hầm lò mặc dù đã có những cải thiện nhất định song vẫn là vấn đề bức xúc, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh và thu hút lao động.
Điều kiện làm việc trong khai thác than hầm lò rất nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm đã gây nhiều tác hại đến an toàn, sức khỏe của người lao động cũng như kinh tế – xã hội. Mặc dù thời gian qua Tập đoàn và các đơn vị thành viên có nhiều biện pháp quyết liệt tăng cường công tác ATLĐ song tình hình tai nạn lao động trong khai thác than hầm lò vẫn còn diễn biến phức tạp, việc cải thiện không vững chắc, số vụ tai nạn chết người và số người chết vẫn ở mức cao, ví dụ năm 2006 số vụ tai nạn chết người là 25 vụ và 41 người chết thì đến năm 2012 vẫn còn 24 vụ và 28 người chết. Trong khi khai thác than hầm lò sẽ ngày ngày tăng lên và trong điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp. Rõ ràng đây sẽ là thách thức nghiêm trọng đối với Tập đoàn trên mọi phương diện: nâng cao sản lượng than, hiệu quả kinh doanh, đảm bảo an toàn và phát triển nguồn nhân lực.
4) Nguồn nhân lực là một trong hai nguồn lực nền tảng để Tập đoàn “đi lên giàu mạnh”, song tình hình hiện nay cả về số lượng và chất lượng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ngành công nghiệp khai thác than, khoáng sản theo hướng hiện đại và phát triển bền vững Tập đoàn.
Nguồn nhân lực của Tập đoàn đến nay đã có sự phát triển về lượng và chất, có bề dày truyền thống “kỷ luật và đồng tâm”, vượt khó đi lên, đa dạng về ngành nghề, trình độ chuyên môn, tay nghề đã được nâng cao và kinh qua kinh nghiệm thực tế. Tuy nhiên, nguồn nhân lực có tình trạng chung là phần lớn có trình độ năng lực chuyên môn, kỹ năng chuyên nghiệp, tư duy kinh doanh, v.v. còn hạn chế và số lượng vừa thiếu, vừa thừa: thiếu lao động chất lượng cao; thừa lao động năng lực yếu, lao động gián tiếp, phục vụ, phụ trợ. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm giảm NSLĐ và hiệu quả kinh doanh nhưng việc khắc phục rất khó khăn, phức tạp.
5) Về vấn đề thực hiện cơ giới hóa trong khai thác than hầm lò còn nhiều khó khăn, bất cập, trong khi đây lại là khâu then chốt để nâng cao năng suất, sản lượng, hệ số thu hồi tài nguyên và đảm bảo an toàn lao động trong khai thác than hầm lò thời gian tới.
Để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả khai thác và an toàn lao động trong khai thác than hầm lò, Tập đoàn đã đặc biệt quan tâm đầu tư nghiên cứu và triển khai chương trình cơ giới hóa nói chung và cơ giới hóa đồng bộ nói riêng trong khai thác than hầm lò. Đến nay, tuy đã đạt được những kết quả nhất định song về cơ bản chương trình cơ giới hóa chưa đạt được mục tiêu đề ra, nhất là tỉ lệ nội địa hóa, công suất, năng suất và tỉ lệ cơ giới hóa đồng bộ. Hiện tại, tỉ lệ sản lượng than khai thác bằng CGH đồng bộ đạt rất thấp và có xu hướng giảm: năm 2011: 2,4% và năm 2012: 1,8%. Tỉ lệ nội địa hóa không đáng kể. Năng suất lao động thấp và giảm: năm 2010 đạt 589,4 đến năm 2012 giảm còn 534 tấn/người/năm.
6) Công tác bảo vệ môi trường nói chung và xử lý, tái chế chất thải và sử dụng tổng hợp các tài nguyên khoáng sản đi kèm trong quá trình khai thác, sử dụng than, khoáng sản nói riêng còn hạn chế, thậm chí nhiều vấn đề chưa giải quyết được. Điều đó vừa làm trầm trọng thêm ô nhiễm môi trường, vừa gây tổn thất nguồn tài nguyên, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh và sự phát triển bền vững sản xuất kinh doanh của Tập đoàn.
7) Sẽ đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt trên thị trường than trong nước với các đối thủ trong nước và nước ngoài.
Hiện nay, ở trong nước về sản xuất than ngoài Tập đoàn còn có các đơn vị như Tổng công ty Đông Bắc, Công ty 319 (đều là của Bộ Quốc phòng), Vietmindo (doanh nghiệp FDI) và một số đơn vị khác thuộc địa phương cùng hoạt động trên địa bàn Quảng Ninh; về kinh doanh than nhập khẩu, các Tập đoàn PVN, EVN, v.v. đã và đang thành lập các công ty nhập khẩu than từ nước ngoài. Ngoài ra, các công ty nước ngoài cũng sẽ chủ động xuất khẩu than vào Việt Nam khi Việt Nam mở cửa và hội nhập hoàn toàn khu vực và thế giới.
Như vậy, sắp tới trên thị trường than trong nước vừa có nhiều đối thủ cạnh tranh cả trong và ngoài nước, vừa có sự cạnh tranh giữa than trong nước và than nhập khẩu. Đó sẽ là cuộc cạnh tranh hết sức gay gắt, quyết liệt vì sự sinh tồn mà Tập đoàn phải đối mặt.
* Các giải pháp chủ yếu để vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2014 và thúc đẩy phát triển bền vững Tập đoàn
Phát huy bài học tổng hợp “đánh chắc, tiến chắc” của chiến thắng Điện Biên Phủ thành tư duy và phương châm hành động của Tập đoàn là: nắm chắc tài nguyên, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường năng lực tài chính đi đôi với khai thác có hiệu quả các nguồn lực xã hội, hoàn thiện tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý, hiện đại hóa công nghệ, mở rộng hợp tác, từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, nâng cao năng lực cạnh tranh, kiên trì thực hiện mục tiêu: đảm bảo an toàn, sản xuất ổn định, tăng trưởng hợp lý, hiệu quả cao, thân thiện với môi trường, hài hòa với cộng đồng và phát triển bền vững nhằm xây dựng Tập đoàn “Giàu mạnh – Thân thiện – Hài hòa”.
Trên tinh thần đó, cùng với việc thực hiện các giải pháp ngắn hạn (đẩy mạnh tiêu thụ, tăng cường quản trị chi phí, hoàn thiện kế hoạch phối hợp kinh doanh và công tác tiền lương, quản lý chặt chẽ thị trường nội bộ và nguồn than, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác thanh, kiểm tra, v.v.), Tập đoàn đặc biệt quan tâm tập trung chỉ đạo quyết liệt thực hiện những giải pháp chính sau đây:
– Một là, tập trung cao độ cho công tác quản trị tài nguyên theo đúng vai trò “Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực nền tảng cho hoạt động kinh doanh của Tập đoàn” và là một trong 2 nguồn lực để Tập đoàn đi lên giàu mạnh. Trong đó, trọng tâm là cập nhật kịp thời thực trạng tài nguyên khoáng sản, đẩy nhanh công tác cấp phép thăm dò, tăng cường đầu tư thăm dò nâng cấp trữ lượng, đảm bảo kịp thời và chính xác. Phương châm chung của công tác đầu tư thăm dò là “đảm bảo độ tin cậy cao là số 1” với mục tiêu “thấu hiểu lòng đất, nắm chắc tài nguyên”.
– Hai là, đi đôi với phát triển nguồn vốn chủ sở hữu phải thực hiện quyết liệt và có hiệu quả chủ trương xã hội hóa đầu tư, huy động tối đa mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất, đảm bảo tiến độ xây dựng các mỏ than hầm lò mới, các dự án than, điện, khoáng sản, luyện kim quan trọng, dự án sản xuất nitrat amôn và đưa 2 nhà máy chế biến alumin đi vào hoạt động ổn định, có hiệu quả, tạo sự đột phá cho ngành công nghiệp khai khoáng nói chung và ngành công nghiệp bauxite nói riêng của nước ta.
Chỉ có con đường thực hiện xã hội hóa đầu tư mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư tăng cao trong khi nguồn vốn chủ sở hữu hạn hẹp, mới có thể giải quyết được vấn đề lao động và quản trị chi phí có hiệu quả. Việc thực hiện xã hội hóa đầu tư phải tuân thủ nguyên tắc “cái gì xã hội làm được và làm có hiệu quả hơn thì để xã hội làm”; Tập đoàn và các đơn vị thành viên chủ yếu chỉ nắm quyền chỉ huy, điều hành và nắm đầu ra thông qua nắm quyền chủ mỏ hoặc các khâu then chốt.
– Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý và mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên cơ sở triệt để tiết giảm chi phí, nâng cao NSLĐ, chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng.
– Bốn là, đi đôi với cải thiện điều kiện làm việc phải tăng cường hơn nữa, quyết liệt hơn nữa công tác an toàn lao động theo hướng đảm bảo thực sự khắc phục được một cách triệt để các nguy cơ, nguyên nhân nhằm giảm thiểu tai nạn lao động một cách vững chắc. Phương châm lâu dài là kiên trì thực hiện mục tiêu “Tai nạn bằng không”. Chỉ có như vậy mới có thể góp phần giữ chân và thu hút công nhân hầm lò, phát triển khai thác hầm lò một cách bền vững.
– Năm là, tăng cường thực hiện đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hóa, nhất là cơ giới hóa đồng bộ trong khai thác than hầm lò một cách hiệu quả hơn, chủ động hơn trên tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới cách làm theo hướng thay vì chủ yếu dựa vào nhập khẩu thiết bị chuyển sang tự chủ sản xuất, chế tạo thiết bị trên cơ sở hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong nước thông qua phương thức xã hội hóa đầu tư và các đối tác nước ngoài thực sự có tiềm lực thông qua phương thức cùng hợp tác đầu tư khai thác và chế tạo thiết bị tại Việt Nam. Tập trung mọi nỗ lực thúc đẩy phát triển các sản phẩm cơ khí phục vụ nhu cầu trong Tập đoàn, đặc biệt là phục vụ chương trình cơ giới hóa khai thác than hầm lò. Mục tiêu của CGH khai thác hầm lò là nâng cao an toàn, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao năng suất, sản lượng, hiệu quả và giảm tổn thất than.
– Sáu là, đi đôi với việc bố trí, sắp xếp sản xuất hợp lý cần tăng cường quản trị nguồn nhân lực theo hướng tập trung thực hiện “Công thức nhân tài 3C” của GS. Dave Ultrich. Tiếp tục sắp xếp lại lao động một cách hợp lý, nâng cao năng lực trên cơ sở nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, tính chuyên nghiệp và tinh thần trách nhiệm đối với công việc và doanh nghiệp.
– Bảy là, đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản, luyện kim, sản xuất điện, trong đó trọng tâm là hoàn thổ, hoàn nguyên môi trường và đầu tư khai thác, thu hồi khoáng sản đi kèm, nghiên cứu tái chế chất thải công nghiệp, đặc biệt là thải xỉ của nhà máy điện than và bùn đỏ của nhà máy chế biến alumin. Đây không đơn thuần chỉ là công tác BVMT mà là nền tảng của chiến lược tăng trưởng xanh trong sản xuất kinh doanh của Tập đoàn, đồng thời cũng là một hướng mở rộng kinh doanh nhằm tạo thêm việc làm để giải quyết lao động dôi dư từ các dây chuyền sản xuất chính, nhất là trong khai thác than hầm lò.
“Công thức nhân tài 3C” của GS Dave Ultrich (ĐH Michigan Mỹ) người được Tạp chí Forbes bầu chọn là một trong 5 nhà cố vấn quản trị hàng đầu thế giới về phát triển nhân lực, đó là: “Nhân tài = Năng lực x Cam kết x Cống hiến” (Competence, Commitment, Contribution), nếu một trong 3 yếu tố nêu trên bằng 0, coi như kết quả làm việc cũng bằng 0.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/phat-huy-bai-hoc-danh-chac-tien-chac-cua-chien-thang-dien-bien-phu-de-vuot-qua-kho-khan-thach-7108.htm” button=”Theo vinacomin”]