Cách đây 5 năm, khi Công ty TNHH MTV than Na Dương – VVMI kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập, ông Đoàn Văn Kiển (nguyên Chủ tịch HĐTV Vinacomin) có đến dự và nói: “Nếu coi thập niên 80 là thời gian “vang bóng” nhất của mỏ than Na Dương thì đến những năm 90 của thế kỷ XX lại là thời kỳ bĩ cực của mỏ than này”. Tuy nhiên đến nay, Than Na Dương đã tìm được về thời hoàng kim của mình.
Than Na Dương có nhiều nét đặc biệt. Tầng chứa than trên chạy dài từ phía Đông – Đông Bắc đến phía Tây Nam. Than Na Dương là loại than đặc chủng, ít có ở Việt Nam, là loại than nâu chuyển tiếp than ngọn lửa dài. Việc khai thác đã khó, nhưng việc sàng tuyển và lưu kho còn khó hơn rất nhiều. Trước đây, than được khai thác lên chưa dùng đến chỉ cần để lại có thể trong đêm đã bốc cháy mà đã cháy tự nhiên thì lưu huỳnh chưa được khử, nên bay ra mùi rất khó chịu. Thêm vào đó, khi gặp nước sẽ chuyển hoá thành axit sunfuaríc, loại axít này nếu thải ra môi trường sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường xung quanh. Đó là chuyện trước đây, còn bây giờ, việc xử lý các sự cố than cháy hay nước thải ra sông Kỳ Cùng ở Na Dương đã được đảm bảo an toàn.
Bên cạnh đó, việc tiêu thụ than Na Dương cũng gặp rất nhiều trở ngại. Bởi đặc thù là loại than ngọn lửa dài, nên chỉ dùng được trong công nghệ xi măng lò quay phương pháp ướt và cho các nhà máy nhiệt điện với công nghệ lò tầng sôi tuần hoàn. Từ thập kỷ tám mươi, nước ta thực hiện nhiều công trình trọng điểm, theo đó, hàng loạt nhà máy xi măng được đầu tư xây dựng, trong đó có Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn công suất 1,2 triệu tấn/năm, công nghệ ướt của Liên Xô, nên than Na Dương là nguyên liệu mang lại hiệu quả nhất. CBCNV của Mỏ cũng được tăng cường lên đến trên 2.000 người. Thời kỳ này được coi là thời hoàng kim nhất của Mỏ than Na Dương. Tuy nhiên, những năm gần đây, nhằm nâng cao chất lượng công nghệ, các nhà máy xi măng chuyển sang sản xuất theo phương pháp khô, đồng nghĩa với việc dừng tiêu thụ than Na Dương. Đây chính là một trong vấn đề nan giải nhất của Mỏ than Na Dương, làm thế nào để giữ sản xuất ổn định và còn bao nhiêu hệ lụy khác đến con người…
… Tới những nỗ lực tìm lại thời “hoàng kim”
Năm 2005, Nhà máy Nhiệt điện Na Dương đi vào vận hành như một vị cứu tinh cho than Na Dương trong những năm đầu thế kỷ XXI này. Tính ra mỗi năm, Mỏ than Na Dương cung cấp cho Nhà máy Nhiệt điện Na Dương trên 500.000 tấn than sạch. Nắm bắt được thời cơ, vận hội; đồng thời xác định rõ ràng những biến động của nền kinh tế, những khó khăn thách thức, tập thể các thế hệ CNCB của Mỏ luôn ý thức quyết tâm xây dựng một vùng mỏ mang diện mạo mới. Hôm nay, vùng mỏ Na Dương đã khoác trên mình tấm áo mới, với khu điều hành khang trang, xanh – sạch – đẹp, trên công trường được trang bị những thiết bị hiện đại, nhà xưởng quy củ hơn… Cùng với đó là sự nỗ lực trong sản xuất kinh doanh, tập thể CBNV- LĐ nên đã ghi thêm vào trang sử mới của mình những con số khá ấn tượng. Kết thúc năm 2013, Công ty sản xuất và tiêu thụ đạt 500.000 tấn than sạch, doanh thu đạt trên 430 tỷ đồng, thu nhập bình quân của người lao động đạt 6,3 triệu đồng/người/tháng.
Những con số tưởng chừng rất khô khan nhưng ẩn đằng sau đó là cả một quyết tâm, nỗ lực hồi sinh một vùng mỏ của những người nơi đây. Theo quan sát của chúng tôi, một trong những yếu tố làm nên thành công chung của Than Na Dương phải kể đến đó là sự quyết tâm dám nghĩ, dám làm và những đầu tư hợp lý, đúng hướng của đơn vị. Ông Lý Văn Lục – GĐ Công ty – cho biết, tổng giá trị đầu tư giai đoạn 2009 đến nay của Công ty khoảng 700 tỷ đồng với những trang thiết bị đồng bộ, hiện đại, như: Dàn xe ô tô tự đổ trọng tải 54-60 tấn, máy xúc thủy lực gầu ngược EX 1200-6… Đồng thời với việc đầu tư thiết bị, cải tiến công nghệ khai thác đơn vị đã thực hiện các dự án ĐBGPMB phục vụ việc mở rộng khai trường, bãi đổ thải, chuẩn bị mặt bằng cho việc mở rộng nâng công suất mỏ. Song song đó, đơn vị đã thực hiện đầu tư nhằm cải thiện môi trường sản xuất, hạn chế các tác hại do quá trình sản xuất; tiến hành đầu tư cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu sản xuất, cải thiện điều kiện làm việc của CNCB…
Bảo vệ “tài sản” quý giá nhất
Để sản xuất phát triển, Công ty rất quan tâm đến việc nắm bắt tâm tư tình cảm, chăm lo tốt đời sống vật chất tinh thần, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp cho công nhân, người lao động. Được sự quan tâm của lãnh đạo Công ty, cán bộ công đoàn luôn chăm lo đến điều kiện ăn, ở, làm việc, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thu nhập cho người lao động. Mỗi năm, Công ty thường tổ chức cho công nhân đi tham quan, giao lưu, học tập kinh nghiệm, điều dưỡng, phục hồi chức năng, nghỉ mát, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Cùng với đó, Công ty rất coi trọng việc bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực. Với quan điểm, đội ngũ lao động là “tài sản”, là “nguồn vốn cố định” lớn nhất và quý nhất, Công ty luôn tạo điều kiện để người lao động không ngừng học tập, nâng cao tay nghề. Hàng trăm lượt người đã được đào tạo trong 5 năm qua. Có lẽ vì thế mà khi đến thăm các phân xưởng, chúng tôi bắt gặp không khí làm việc khẩn trương, chuyên nghiệp, các bộ phận hoạt động đều tay và có hiệu quả. Hơn thế nữa, Công ty còn mạnh dạn đầu tư hiện đại hóa các trang thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh vừa bảo vệ, hỗ trợ đội ngũ lao động và làm tốt công tác bảo vệ môi trường.
Khai trường than Na Dương vào những ngày đầu Xuân 2014, tầng tầng lớp lớp than nâu xen đất vàng lộ thiên. Trên công trường, âm vang tiếng máy từ phía các phân xưởng hòa cùng tiếng gió tạo nên một chùm âm thanh đặc biệt. Gió Na Dương khác với gió ở những nơi khác, vừa mạnh mẽ vừa chậm rãi, quấn quýt như muốn níu giữ khách phương xa ở lại. Gió đã vậy, còn đất cũng rất quý người, đặc biệt là lúc trời mưa. Người đi, đế giày ở lại vì đất sét ở mỏ gặp nước là kết dính và trương nở, hút tất cả những gì dính vào nó.
Ðến với Na Dương, đâu đâu cũng thấy không khí lao động khẩn trương, sôi nổi. Niềm tự hào khi Mỏ bước vào tuổi 55. Bên này – mỏ than Na Dương với từng đoàn xe nối đuôi chở trên mình hàng chục tấn than trên một vùng đồi ngút ngàn một mầu than đen sẫm; bên kia – nhà máy nhiệt điện với ống khói cao vút, ánh điện lung linh trên đỉnh tháp. Dự án mở rộng Mỏ than Na Dương nằm trong tổng thể của Dự án Than – Điện, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành Than nói chung và Mỏ than Na Dương nói riêng. Tương lai không xa, dây chuyền 2 Nhiệt điện Na Dương được khởi công xây dựng và đi vào vận hành. Như vậy, một Tổ hợp Than – Điện Na Dương sẽ sản xuất hàng tỷ kWh điện mỗi năm, sẽ góp phần ổn định việc làm, đảm bảo an sinh xã hội cho nhân dân các dân tộc trên vùng đất biên cương của Tổ quốc. Một vùng mỏ đã lại hồi sinh và đang vươn mình với những khát vọng mới. Huân chương Lao động hạng Nhất, Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Độc lập hạng Nhì…là những ghi nhận xứng đáng cho nỗ lực đi lên của Than Na Dương.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/gio-moi-na-duong-7437.htm” button=”Theo vinacomin”]