Năm 2013 đã khép lại với nhiều sự kiện nổi bật diễn ra trong Tập đoàn. Trong những sự kiện nổi bật đó, cần phải nhắc tới sự kiện đón tấn than đầu tiên của Dự án Khe Chàm III (gọi tắt). Đây là dự án xây dựng mỏ mới, có tổng mức đầu tư ban đầu hơn 2.200 tỷ đồng, mở vỉa bằng cặp giếng nghiêng có chiều dài mỗi giếng gần 1,6 km, dốc 120, từ mặt bằng mức 25 xuống mức âm 300 với công suất mỏ 2,5 triệu tấn/năm. Khởi công từ năm 2006, đến nay, tức là sau 7 năm mới ra tấn than đầu tiên.
Có người cho rằng, đây là mỏ mới hoàn toàn, lần đầu tiên do CNCB ngành Than thiết kế và thi công. Thực tế không phải vậy. Từ khi thành lập Tổng Công ty than Việt Nam (10/1994) hàng loạt dự án xuống sâu, mở vỉa bằng giếng nghiêng, do ta thiết kế và thi công, đã góp phần nâng cao sản lượng của toàn ngành. “Ta”, cụ thể là Công ty Tư vấn Đầu tư mỏ và Công nghiệp làm nhiệm vụ tư vấn thiết kế; các công ty xây dựng mỏ hầm lò và các đơn vị thuộc chủ đầu tư dự án thi công. Tôi nhớ, cách đây gần 10 năm, khi đến Xí nghiệp than Thành Công, ông Phạm Văn Mật, khi đó là Giám đốc Xí nghiệp (nay ông Mật là Thành viên Hội đồng thành viên Tập đoàn), giới thiệu với tôi giếng nghiêng Đông Bình Minh từ mức 40 xuống âm 75 do Xí nghiệp thi công. Lần đầu đào giếng nghiêng, nhưng tiến độ và chất lượng công trình đạt cao; Dự án này ra than năm 2006, về trước kế hoạch 6 tháng. Cùng thời điểm đó, đến Than Cao Thắng, Than Giáp Khẩu, Than Cẩm Thành v.v. cũng thấy các mỏ mới, công suất nhỏ, mở vỉa bằng giếng nghiêng, do ta thiết kế và thi công.
Nhiều dự án mở vỉa bằng giếng nghiêng thuộc các công ty than hầm lò nhưng thực ra là mỏ mới xây dựng, độc lập. Chẳng hạn, ở Công ty than Vàng Danh, có Dự án giếng Vàng Danh và Dự án Cánh Gà Vàng Danh (gọi tắt). Nhờ các dự án mở vỉa bằng giếng nghiêng này, Than Vàng Danh luôn chủ động về diện sản xuất, trở thành đơn vị hàng đầu của Tập đoàn về sản lượng than hầm lò. Dự án xuống sâu từ mức âm 97,5 tới âm 250 ở Than Mông Dương là một mỏ mới hiện đại với hệ thống sân ga, hầm trạm như Mỏ than Mông Dương do Liên Xô giúp ta xây dựng trước đây. Trước, Mỏ than Mông Dương được Liên Xô giúp đỡ nhưng phải xây dựng mất 16 năm mới ra than; nay ta chỉ “đánh’ trong 6 năm là xong.
Hiện nay, trong Tập đoàn còn nhiều dự án mở vỉa bằng giếng nghiêng do ta thiết kế và thi công sắp ra than như Dự án xuống sâu ở Nam Mẫu; Dự án xuống sâu ở Tràng Khê (Than Uông Bí), Dự án xuống sâu bằng giếng nghiêng Bình Minh (Than Hòn Gai) v.v. Có thể khẳng định rằng, việc thiết kế, thi công các dự án hầm lò mở vỉa bằng giếng nghiêng ta đã “thuộc bài”, đã có nhiều kinh nghiệm trong công nghệ và tổ chức chu kỳ đào lò.
Trở lại với sự kiện ra tấn than đầu tiên ở Khe Chàm III. Dù ta đã “thuộc bài”, nhưng Dự án này phải đào 7 năm mới ra được tấn than đầu tiên và còn lâu mới đạt công suất thiết kế. 7 năm qua, Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 1 và Than Khe Chàm đã vật lộn với đá rắn, với bùn đất để đào hơn 9 cây số lò đá, trong đó gồm 2 giếng nghiêng, nhiều hầm trạm tiết diện lớn và đào trên 4 nghìn mét lò trong than. Dự án xuống sâu bằng giếng nghiêng của Than Nam Mẫu, tổng mức đầu tư gần 3 nghìn tỷ đồng; công suất 2,5 triệu tấn, phải đào khoảng 35 nghìn mét lò; được khởi công từ năm 2006, đến nay chưa ra than. Cho hay rằng, để lấy một tấn than tốn thật nhiều công sức, tiền bạc và thời gian, không thể “múc lên mà bán” như một số người nhầm tưởng và cho hay rằng, sức ép về tiến độ đào lò XDCB đang đặt lên vai chúng ta thật nặng nề…
Theo quy hoạch phát triển của ngành Than được Chính phủ phê duyệt, đến 2015, sản lượng than thương phẩm sản xuất toàn ngành từ 55 – 58 triệu tấn; năm 2030 đạt trên 75 triệu tấn. Để đạt mục tiêu đó, bên cạnh các dự án xuống sâu mở vỉa bằng giếng nghiêng như đã nêu, còn một số dự án mỏ, công suất lớn, mở vỉa bằng giứng đứng như Hà Lầm, Núi Béo và mới đây là Khe Chàm II-IV. Dù công việc thiết kế, mở vỉa bằng giếng đứng ta chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng các dự án như giếng đứng, bước đầu đã đạt những kết quả tốt đẹp, khẳng định năng lực thiết kế và thi công của ta.
Nhu cầu sử dụng than ngày càng lớn; để lấy được tấn than ngày càng xuống sâu, càng khó khăn và gian khổ. Dù vậy, chúng ta phải quyết đẩy nhanh tiến độ XDCB các mỏ hầm lò mới đáp ứng nhu cầu sản lượng cho những năm tới.
Có người cho rằng, đây là mỏ mới hoàn toàn, lần đầu tiên do CNCB ngành Than thiết kế và thi công. Thực tế không phải vậy. Từ khi thành lập Tổng Công ty than Việt Nam (10/1994) hàng loạt dự án xuống sâu, mở vỉa bằng giếng nghiêng, do ta thiết kế và thi công, đã góp phần nâng cao sản lượng của toàn ngành. “Ta”, cụ thể là Công ty Tư vấn Đầu tư mỏ và Công nghiệp làm nhiệm vụ tư vấn thiết kế; các công ty xây dựng mỏ hầm lò và các đơn vị thuộc chủ đầu tư dự án thi công. Tôi nhớ, cách đây gần 10 năm, khi đến Xí nghiệp than Thành Công, ông Phạm Văn Mật, khi đó là Giám đốc Xí nghiệp (nay ông Mật là Thành viên Hội đồng thành viên Tập đoàn), giới thiệu với tôi giếng nghiêng Đông Bình Minh từ mức 40 xuống âm 75 do Xí nghiệp thi công. Lần đầu đào giếng nghiêng, nhưng tiến độ và chất lượng công trình đạt cao; Dự án này ra than năm 2006, về trước kế hoạch 6 tháng. Cùng thời điểm đó, đến Than Cao Thắng, Than Giáp Khẩu, Than Cẩm Thành v.v. cũng thấy các mỏ mới, công suất nhỏ, mở vỉa bằng giếng nghiêng, do ta thiết kế và thi công.
Nhiều dự án mở vỉa bằng giếng nghiêng thuộc các công ty than hầm lò nhưng thực ra là mỏ mới xây dựng, độc lập. Chẳng hạn, ở Công ty than Vàng Danh, có Dự án giếng Vàng Danh và Dự án Cánh Gà Vàng Danh (gọi tắt). Nhờ các dự án mở vỉa bằng giếng nghiêng này, Than Vàng Danh luôn chủ động về diện sản xuất, trở thành đơn vị hàng đầu của Tập đoàn về sản lượng than hầm lò. Dự án xuống sâu từ mức âm 97,5 tới âm 250 ở Than Mông Dương là một mỏ mới hiện đại với hệ thống sân ga, hầm trạm như Mỏ than Mông Dương do Liên Xô giúp ta xây dựng trước đây. Trước, Mỏ than Mông Dương được Liên Xô giúp đỡ nhưng phải xây dựng mất 16 năm mới ra than; nay ta chỉ “đánh’ trong 6 năm là xong.
Hiện nay, trong Tập đoàn còn nhiều dự án mở vỉa bằng giếng nghiêng do ta thiết kế và thi công sắp ra than như Dự án xuống sâu ở Nam Mẫu; Dự án xuống sâu ở Tràng Khê (Than Uông Bí), Dự án xuống sâu bằng giếng nghiêng Bình Minh (Than Hòn Gai) v.v. Có thể khẳng định rằng, việc thiết kế, thi công các dự án hầm lò mở vỉa bằng giếng nghiêng ta đã “thuộc bài”, đã có nhiều kinh nghiệm trong công nghệ và tổ chức chu kỳ đào lò.
Trở lại với sự kiện ra tấn than đầu tiên ở Khe Chàm III. Dù ta đã “thuộc bài”, nhưng Dự án này phải đào 7 năm mới ra được tấn than đầu tiên và còn lâu mới đạt công suất thiết kế. 7 năm qua, Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 1 và Than Khe Chàm đã vật lộn với đá rắn, với bùn đất để đào hơn 9 cây số lò đá, trong đó gồm 2 giếng nghiêng, nhiều hầm trạm tiết diện lớn và đào trên 4 nghìn mét lò trong than. Dự án xuống sâu bằng giếng nghiêng của Than Nam Mẫu, tổng mức đầu tư gần 3 nghìn tỷ đồng; công suất 2,5 triệu tấn, phải đào khoảng 35 nghìn mét lò; được khởi công từ năm 2006, đến nay chưa ra than. Cho hay rằng, để lấy một tấn than tốn thật nhiều công sức, tiền bạc và thời gian, không thể “múc lên mà bán” như một số người nhầm tưởng và cho hay rằng, sức ép về tiến độ đào lò XDCB đang đặt lên vai chúng ta thật nặng nề…
Theo quy hoạch phát triển của ngành Than được Chính phủ phê duyệt, đến 2015, sản lượng than thương phẩm sản xuất toàn ngành từ 55 – 58 triệu tấn; năm 2030 đạt trên 75 triệu tấn. Để đạt mục tiêu đó, bên cạnh các dự án xuống sâu mở vỉa bằng giếng nghiêng như đã nêu, còn một số dự án mỏ, công suất lớn, mở vỉa bằng giứng đứng như Hà Lầm, Núi Béo và mới đây là Khe Chàm II-IV. Dù công việc thiết kế, mở vỉa bằng giếng đứng ta chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng các dự án như giếng đứng, bước đầu đã đạt những kết quả tốt đẹp, khẳng định năng lực thiết kế và thi công của ta.
Nhu cầu sử dụng than ngày càng lớn; để lấy được tấn than ngày càng xuống sâu, càng khó khăn và gian khổ. Dù vậy, chúng ta phải quyết đẩy nhanh tiến độ XDCB các mỏ hầm lò mới đáp ứng nhu cầu sản lượng cho những năm tới.
[odex-source url=”https://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/gieng-nghieng-du-ta-da-thuoc-bai-6904.htm” button=”Theo vinacomin”]